Top 11 # Ý Nghĩa Quan Trọng Nhất Của Cách Mạng Tháng 8 Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Drosetourmanila.com

Ý Nghĩa Trọng Đại Của Cách Mạng Tháng Mười

“…Dù người ta nghĩ thế nào về chủ nghĩa bônsêvích chăng nữa cũng không thể chối cãi được tằng: Cách mạng Tháng Mười Nga là một trong những sự kiện lớn của lịch sử nhân loại…”                                                                                                                                              Giôn Rít

Một thế kỷ đã trôi qua, kể từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười vĩ đại, cuộc cách mạng đã làm cho mơ ước ngàn đời của quần chúng bị áp bức và bị bóc lột về cuộc sống tốt đẹp, về khả năng xây dựng một xã hội mới công bằng, văn minh đã trở thành hiện thực. Vì thế Cách mạng Tháng Mười được ghi nhận là cuộc cách mạng giải phóng xã hội, giải phóng con người. Nhưng chính vào những ngày kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười, trong gần ba thập kỷ qua, đã xuất hiện không ít những luận điệu xuyên tạc, bôi đen Cách mạng Tháng Mười, công kích quyết liệt lý tưởng và sự nghiệp cao cả của cuộc cách mạng vĩ đại này. Những luận điệu đó đổi trắng thay đen, coi Cách mạng Tháng Mười là một thể nghiệm sai lầm, là cuộc cách mạng phi lý, không tưởng , kéo lùi sự phát triển của loài người. Cái cớ mà họ đưa ra vẫn chỉ là coi sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu đã đặt dấu chấm hết đối với Cách mạng Tháng Mười. Đúng là kể từ khi Cách mạng Tháng Mười thành công, gần ba thập niên vừa qua là tổn thất nặng nề nhất và đau buồn nhất đối với các đảng cộng sản, nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa và các lực lượng tiến bộ trên thế giới. Nhưng không vì thế mà Cách mạng Tháng Mười mất đi ý nghĩa lịch sử nhân loại.

I

1. Cách mạng Tháng Mười là sự đột phá quan trọng tạo ra sự thay đổi trình tự phát triển của các nấc thang trong xã hội

Nghiên cứu lịch sử xã hội loài người, Mác đã khái quát nó qua sự phát triển các phương thức sản xuất kế tiếp nhau và gọi đó là các hình thái kinh tế – xã hội. Quá trình phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội là quá trình lịch sử, tự nhiên. Sự thay đổi hình thái kinh tế – xã hội này bằng hình thái kinh tế – xã hội khác nhất định sẽ diễn ra và phải có điều kiện: hình thái cũ đã mất hết khả năng tự phát triển và trở thành lực cản xã hội. Chủ nghĩa tư bản tất yếu sẽ bị chủ nghĩa xã hội thay thế, và điều đó sẽ xảy ra ở những nước mà chủ nghĩa tư bản phát triển đến đỉnh cao.

Trước Cách mạng Tháng Mười, chủ nghĩa tư bản Nga còn ở giai đoạn phát triển thấp. Phải có sự phát triển hơn nữa thì chủ nghĩa tư bản ở đây mới có thể tạo ra những tiền đề cho xã hội mới. Cũng vì vậy, không ít các nhà dân chủ – xã hội Nga cho rằng: trước tên, cần tạo ra những tiền đề văn minh cho chủ nghĩa xã hội, sau đó giai cấp công nhân mới có thể giành chính quyền và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Lênin và Đảng bônsêvích Nga đã vận dụng sáng tạo các luận điểm của Các Mác vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nước Nga bằng việc trước tiên giai cấp công nhân giành lấy chính quyền, rồi sau đó dựa vào chính quyền của mình, thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội.

Sự vận dụng sáng tạo đó của Lênin là có căn cứ thực tế. Nước Nga Sa hoàng lạc hậu hơn các nước tư bản rất nhiều, xã hội vô cùng thối nát. Đã thế, nó lại bị cuốn vào cuộc chiến tranh đế quốc nên càng gặp khó khăn gấp bội. Mặc dù ở Nga, mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản chưa thật sâu sắc nhưng đã xuất hiện tình thế cách mạng vì mâu thuẫn trong lòng xã hội đã gay gắt đến tột độ. Đó là mâu thẫn giữa giai cấp thống trị với các tầng lớp lao động và binh lính. Khẩu hiệu “Biến chiến tranh đế quốc thành nội chiến tranh cách mạng” là khẩu hiệu sáng tạo. Cách mạng Tháng Mười đã nổ ra và thành công. Sự “đột phá Tháng Mười” mở đầu cho một xu thế mới của lịch sử thế giới. Nước Nga đứng trước một thách thức vĩ đại của lịch sử: chủ nghĩa xã hội khoa học vượt ra ngoài lý thuyết, đi vào thực tiễn trong một nước tư bản chủ nghĩa chưa phát triển, tàn dư phong kiến còn nhiều, lại bị kiệt quệ sau chiến tranh. Nó phải giải quyết một cách rất sáng tạo hàng loạt vấn đề chưa có tiền lệ.

2. Cách mạng Tháng Mười tạo xung lực mạnh mẽ làm thay đổi thế giới

Sự phát triển của xã hội loài người từ sau Cách mạng Tháng Mười đã chứng tỏ những đóng góp của Cách mạng tháng Mười là rất to lớn.

Thế giới trước Cách mạng Tháng Mười la thế giới của chủ nghĩa tư bản ở châu Âu sau chiến thắng chủ nghĩa phong kiến đã bành trướng ra khắp thế giới với sức mạnh kinh tế, chính trị, quân sự chưa từng có. Các nước tư bản phát triển trở thành trung tâm vũ trụ, chi phối mọi mặt đời sống quốc tế. Cách mạng Tháng Mười nổ ra và thắng lợi đã làm cho hệ thống tư bản chủ nghĩa bị phá vỡ một mảng lớn. Các dân tộc bị áp bức bừng tỉnh, bung ra với một động lực mới. Các nước tư bản phát triển không còn có thể mặc sức bành trướng, tự do “tranh ăn” với nhau bằng những xung đột, kể cả chiến tranh thế giới. Không có Cách mạng Tháng Mười thì không thể có phong trào giải phóng dân tộc quốc tế lớn mạnh, dẫn tới sự sụp đổ hoàn toàn hệ thống thuộc địa, giải phóng hàng loạt nước trên thế giới như gần thế kỷ vừa qua đã chứng thực.

Cách mạng Tháng Mười tạo ra một khả năng mới cho sự phát triển của các dân tộc, tạo ra đối trọng mới để thế giới cân bằng. Trước Cách mạng Tháng Mười, chế độ tư bản chủ nghĩa hiện diện như một định mệnh. Các nước nhỏ, nghèo nàn, lạc hậu, các nước thuộc địa nhìn thấy thực trạng của nhà nước tư bản chính quốc mà kinh hãi. Chủ nghĩa tư bản phát triển trên máu và nước mắt của người lao động. Tích lũy tư bản là tích lũy sự giàu sang, cũng là tích lũy sự khốn khó. Sự xuất hiện một nước Nga Xô viết, tiếp theo là hàng loạt các nước xã hội chủ nghĩa khác, đã thành tấm gương lớn, thành một sức hút mạnh mẽ. Chủ nghĩa xã hội chưa mang lại sự giàu có hơn chủ nghĩa tư bản vì điểm xuất phát quá thấp, nhưng nó cũng đã làm được nhiều việc hơn chủ nghĩa tư bản trong việc xóa bỏ áp bức, bất công. Đó là sự đáp ứng nhiều mặt khát vọng của con người.

Không ai có thể phủ nhận sự thật sau đây:

Chủ nghĩa xã hội đã từng là một hệ thống hùng mạnh trên thế giới. Với hơn 10 nước, trên 1,5 tỷ người, trong đó có nước đứng vào hàng siêu cường, là một trong hai khối kinh tế chính trị quân sự hùng mạnh. Chủ nghĩa xã hội hiện thực trong một thời gian dài đã là chỗ dựa tin cậy của các nước thuộc địa, của phong trào giải phóng dân tộc, vì thế, đã làm cho chủ nghĩa tư bản phải kiêng nể. Chính nhờ có đối trọng ấy mà thế giói vừa qua có sự cân bằng nhất định, đỡ bị áp đặt, chèn ép, đe dọa từ phía các thế lực tư bản từng thống trị thế giới trước đây, ngăn ngừa được thảm họa chiến tranh hạt nhân. Chủ nghĩa xã hội hiện thực không chỉ là nhân tố cần thiết cho hòa bình và ổn định thế giới, mà còn là điều kiện không thể thiếu để các nước nhỏ có được độc lập, tự do thật sự.

Cách mạng Tháng Mười đã làm cho ngay các nước tư bản chủ nghĩa cũng phải có sự thay đổi cần thiết. Chủ nghĩa tư bản tới nay còn đứng vững và phát triển được là vì bản thân nó đã có nhiều thay đổi khác trước. Chủ nghĩa tư bản hiện đại là chủ nghĩa tư bản có sự điều chỉnh và thích nghi. Có một điều chắc chắn là: ngày nay chủ nghĩa xã hội vẫn là một yếu tố quan trọng tham gia quyết định chiều hướng phát triển của thế giới, chủ nghĩa tư bản đã không thể “tự nó”, mà phải “vì nó”. Những thay đổi của chủ nghĩa tư bản trong chiến lược kinh tế, chính trị và trong các chính sách về phúc lợi xã hội, về lương, về bảo hiểm… đều do kết quả đấu tranh của gia cấp những người lao động và cùng với nó, là có phần tác động của chủ nghĩa xã hội.

II

Thế giới trong những thập kỷ qua đã thay đổi chưa từng thấy, đặc biệt là xảy ra sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, thành quả trực tiếp do cách mạng Tháng Mười đem lại.

Trước hết cần xác định: sự sụp đổ đó, tuyệt nhiên không thể quy tội cho Cách mạng Tháng Mười. Đó cũng không phải là sự tiêu vong của chủ nghĩa xã hội. Lịch sử đã chứng tỏ Châu Âu sau một loạt cuộc cách mạng tư sản đâu đã thuần chất tư sản. Ở Pháp, không ít năm sau Cách mạng tư sản, thế lực quân chủ phong kiến vẫn còn trỗi dậy. Thành quả do Cách mạng Tháng Mười đem lại có thể bị mất đi ở nơi này, nơi khác, nhưng Cách mạng Tháng Mười trước sau vẫn là cột mốc lịch sử báo hiệu một chiều hướng và khả năng phát triển mới của nhân loại.

Cách mạng Tháng Mười đã đặt ra những nhiệm vụ cụ thể và đã thực hiện được sứ mệnh của nó. Những thành quả của nó không thế lực nào có thể phủ nhận, cho dù đang bị thử thách. Sự khủng   hoảng và đổ vỡ của hệ thống xã hội chủ nghĩa hiện nay do nhiều nguyên nhân. Có những nguyên nhân khách quan và có những nguyên nhân chủ quan.

1. Những nguyên nhân khách quan

Cách mạng Tháng Mười mang tính chất đặc thù. Đây không phải là cuộc cách mạng thủ tiêu xã hội tư bản chủ nghĩa khi xã hội đó đã phát triển đến tột đỉnh và mâu thuẫn nội tại gay gắt tới mức không thể điều hòa, mà đây là cuộc cách mạng chống chiến tranh đế quốc diễn ra ở một nước tư bản chủ nghĩa thuộc loại lạc hậu ở châu Âu. Và chính điều đó đặt cuộc cách mạng sau đó trước những nhiệm vụ khó khăn chưa từng thấy. Nếu không có sự nỗ lực lớn, không có bước đi, phương pháp thích hợp, thì việc phải trả giá nặng nề, thậm chí bi đát là điều khó tránh.

Hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa không chỉ phải vượt qua sức ỳ to lớn của các thực trạng kinh tế- xã hội lạc hậu, thua kém xa các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, mà chủ nghĩa xã hội hiện thực còn phải thường xuyên đương đầu với sự chống phá điên cuồng mang tính phục thù của chủ nghĩa tư bản. Bằng mọi thủ đoạn kinh tế- chính trị, quân sự, văn hóa, tư tưởng, các thế lực đế quốc đã không ngừng gây sức ép, làm suy yếu, và là nhân tố dẫn đến làm tan rã nhiều nước xã hội chủ nghĩa.

2. Những nguyên nhân chủ quan

Sự lãnh đạo của một số Đảng cộng sản cầm quyền ở các nước xã hội chủ nghĩa, bên cạnh những thành tích và ưu điểm, còn có nhiều thiếu sót, sai lầm, thể hiện ở một số điểm sau:

Một là, duy ý chí, cứng nhắc và chủ quan. Các Đảng khi nắm quyền thường tự đưa ra nguyên tắc, quy luật, mô hình theo một dạng, một kiểu, rồi tự buộc mình phải vận động trong khuôn khổ  và theo tiêu chí đã định. Như vậy, chủ nghĩa xã hội tại các nước đó đã không tránh khỏi trì trệ, rập khuôn, thiếu khoa học, mất khả năng sáng tạo, làm cạn kiệt tiềm năng vốn có, ngày càng lạc hậu với thời đại, thua kém chủ nghĩa tư bản về nhiều mặt.

Hai là, vi phạm, xa rời và từ bỏ những nguyên tắc cơ bản chủ nghĩa Mác- Lênin, của chủ nghĩa xã hội. Có thể nêu một số trường hợp.

Cải tổ, cải cách là cần thiết để chủ nghĩa xã hội khắc phục được những biến dạng tai hại. Nhưng coi cải tổ như một sự phủ định sạch trơn thì chẳng khác gì từ bỏ, chống lại Cách mạng Tháng Mười, đi chệch mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.

Phát triển  nhận thức, tư duy mới là cần thiết nhưng không thể nhân danh tư duy mới đi đến phủ nhận tất cả, phủ nhận quan điểm, lập trường giai cấp, rồi phủ nhận luân học thuyết cách mạng là chủ nghĩa Mác-Lênin.

Dân chủ là cần, là hoài bão, là nhu cầu bức xúc của xã hội văn minh. Nhưng dân chủ tràn lan, vô tổ chức, không có van hãm, thì lại thành vô chính phủ.

Không thể không cảnh giác với vấn đề đa nguyên chính trị, đa Đảng đối lập. Không ít Đảng cộng sản cầm quyền vì thực hiện đa nguyên, đa Đảng như thế nên đã mất chính quyền, và sau đó lại không được hưởng chính chế độ đa nguyên, đa Đảng do mình đã đề ra.

III

Tình hình trên làm nổi rõ một số bài học lớn:

Bài học về nguyên tắc. Phải tránh cả hai cực đoan : một phía là nguyên tắc hóa vô tội vạ, quy luật hóa tràn lan, mô hình hóa cứng nhắc; và cực đoan phía khác là vi phạm  và xa rời nguyên tắc, từ bỏ nguyên tắc và vô nguyên tắc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nói; “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Phải có nguyên tắc bất di bất dịch. Đó là sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ; là việc bảo vệ và củng cố chính quyền nhân dân. Phải phân biệt được những gì là nguyên tắc, định hướng, những gì là giải pháp tình thế. Phong trào cộng sản phải tiếp tục sự nghiệp Cách Mạng Tháng Mười, nhưng không khát khao đeo bám những kinh nghiệm quá khứ, mà luôn luôn sáng tạo, mở cửa, để bước đi theo nhịp bước của thời đại.

Bài học về sự đổi mới. Chủ nghĩa xã hội là sự vận động không ngừng. Chủ nghĩa xã hội cần phải đổi mới. Sự nghiệp đổi mới cần được tiến hành thường xuyên liên tục. Nhưng đổi mới cũng phải có định hướng, chỉ đạo. Đổi mới sáng tạo có kế thừa chứ không phải là xóa bỏ sạch trơn. Đổi mới phải đảm bảo tình hình ổn định, bảo đảm trật tự, kỷ cương chứ không thể là sự đảo lộn, hỗn loạn vô chính phủ.

Bài học cảnh giác. Cách mạng đã thành công – chưa đủ. Cách mạng đã đứng vững và đã trải qua những thử thách – cũng vẫn chưa đủ. Chúng ta đều biết, cách mạng Tháng Mười có sức sống vô cùng mạnh mẽ; chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô đã từng chiến thắng chủ nghĩa phát xít; Liên Xô đã xây dựng được cơ sở vật chất kỹ thuật hùng hậu và trở thành một cường quốc hàng đầu thế giới. Thế mà chúng ta đã chứng kiến sự tan rã nhanh chóng của Liên Xô và chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu. Vậy luôn luôn phải đề cao cảnh giác. Cảnh giác với nhiều loại kẻ thù chính trị, tư tưởng, gây sức ép từ ngoài và đục phá từ trong. Cảnh giác với các thế lực hiếu chiến, phản động, không bao giờ từ bỏ dã tâm tiêu diệt chủ nghĩa xã hội hòng giành lại vị trí đã mất.

Dân tộc Việt Nam có truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”. Chúng ta nhớ và luôn luôn nhớ rằng nhờ có Cách mạng Tháng Mười, nhân dân ta đã tìm ra con đường giải phóng; nhờ có chiến thắng của Hồng quân Liên Xô đánh tan chủ nghĩa phát xít, chúng ta đã làm Cách mạng Tháng Tám thành công, lập ra Nhà nước của mình; nhờ có sự giúp đỡ to lớn của Đảng cộng sản và nhân dân Liên Xô của các Đảng cộng sản và nhân dân các nước bầu bạn xa gần, chúng ta đã đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ, thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội như hôm nay. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Càng nhớ lại những ngày tủi nhục mất nước, nhớ lại mỗi bước đường đấu tranh cách mạng đầy hy sinh, gian khổ mà cũng đầy thắng lợi vẻ vang thì giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam càng thấm thía công ơn to lớn của Lênin và Cách mạng Tháng Mười”./.

Tóm Tắt Ý Nghĩa Lịch Sử Của Cách Mạng Tháng 10 Nga

Cách mạng này đã mở ra một bước ngoặt trong lịch sử loài người, đưa thế giới tư bản chủ nghĩa sang thế giới xã hội chủ nghĩa, mở ra một thời đại mới – thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.

Cuộc Cách mạng đã đánh đổ chủ nghĩa đế quốc ở ngay chính quốc, đồng thời đánh vào hậu phương của nó là các nước thuộc địa của Nga hoàng; cổ vũ mạnh mẽ các phong trào cách mạng giải phóng dân tộc của những nước thuộc địa ở các nước châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latin. Đây là cuộc Cách mạng có ý nghĩa lịch sử và tính chất quốc tế sâu rộng mà không một cuộc cách mạng nào trong thời đại ngày nay lại không chịu ảnh hưởng.

Cách mạng Tháng Mười Nga có ảnh hưởng trực tiếp và nhiều mặt đến việc ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, đến hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược cũng như việc giành độc lập, tự do, thống nhất đất nước, đi lên chủ nghĩa xã hội của nhân dân Việt Nam.

Đặc biệt là Nguyễn Ái Quốc, Người đã bị thu hút bởi sự kiện lịch sử gây chấn động thế giới này khi ở Pháp. Chính từ trong bản luận cương của V.I. Lênin “Về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường cứu nước, giải phóng cho dân tộc Việt Nam. Điều này được thể hiện rõ trong tác phẩm “Đường Kách mệnh” năm 1927 của Người. Trong tác phẩm này, Người khẳng định: “Chỉ có đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười – con đường duy nhất đúng đắn – cách mạng Việt Nam mới giành được độc lập, tự do thực sự”.

Đánh giá cuộc Cách mạng Tháng 10 Nga, Người cho rằng: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có một cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”.

Đối với những người yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX, cuộc cách mạng Tháng Mười và chủ nghĩa xã hội tựa như người đi đường đang khát mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn. Lý tưởng của Cách mạng Tháng Mười, chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác – Lênin và những bài học kinh nghiệm của cuộc cách mạng vĩ đại này về nghệ thuật đấu tranh giành và giữ chính quyền đã được Nguyễn Ái Quốc vận dụng và phát triển sáng tạo vào điều kiện cụ thể của nước ta, đưa cách mạng nước ta vượt qua khó khăn, liên tục giành được những thắng lợi to lớn.

Miễn Học Phí Có Ý Nghĩa Quan Trọng

GD&TĐ – Việc sửa đổi toàn diện Luật Giáo dục nhằm tạo cơ sở pháp lý để nâng cao chất lượng giáo dục, chất lượng nguồn nhân lực. Vấn đề miễn học phí đối với trẻ mầm non và THCS có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đặc biệt đối với vùng núi, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn.

Chính sách học phí mang ý nghĩa nhân văn trong Luật GD (sửa đổi)

Bên cạnh đó, từng bước nâng cao chất lượng của đội ngũ giáo viên, đáp ứng yêu cầu của Chương trình GD mới. Đó là chia sẻ của một số Bí thư Đoàn khi góp ý về Luật Giáo dục sửa đổi.

Phân loại đối tượng học sinh được miễn học phí

Chị Ma Thị Mận, Bí thư huyện Đoàn Ba Bể (Bắc Kạn) cho biết: “Với tư cách là người có thời gian công tác trong ngành Giáo dục tại vùng sâu vùng xa (7 năm tại Phòng GD&ĐT), trực tiếp được làm việc với học sinh, giáo viên vùng dân tộc thiểu số, tôi cho rằng, việc miễn học phí đối với trẻ mầm non và THCS có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.

Đây là chủ trương nhân văn, đặc biệt là đối với HS miền núi bởi đời sống của đồng bào các dân tộc ở một số địa bàn miền núi còn nhiều khó khăn, điều kiện để người dân duy trì cuộc sống và trang cấp những điều kiện tối thiểu cho con đi học còn hạn chế. Tình trạng một số học sinh ở các bậc học cao hơn, khi không được miễn học phí, các em bỏ học giữa chừng là không ít. Do đó, chính sách này sẽ tạo điều kiện thuận lợi nhất cho HS dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn đến trường, duy trì và nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục.

Tuy nhiên, theo ý kiến cá nhân tôi, việc miễn học phí trong tương lai cần phân loại theo đối tượng học sinh để chính sách này thực sự đúng việc, đúng đối tượng.

Ngoài ra, trong quá trình thực hiện cần có sự phối hợp đồng bộ, kiểm soát chặt chẽ của các cấp quản lý giáo dục, tránh tình trạng không thu học phí nhưng thực tế lại thay bằng các khoản thu dưới hình thức “xã hội hóa” khác được áp dụng tại một số trường học.

Đồng thời, trong tương lại, Chính phủ có thể hỗ trợ học sinh, các cơ sở giáo dục dưới hình thức khác để nâng cao chất lượng dạy và học cho học sinh và giáo viên vùng đồng bào dân tộc thiểu số, để giáo dục thực sự có sự tương tác chủ động giữa người học và người dạy, làm cho việc đi học của học sinh thực sự là mong muốn chứ không dừng lại ở việc vì nó miễn phí”.

Nâng chất đội ngũ giáo viên

Góp ý tại khoản 1 Điều 119 về chính sách nâng chuẩn trình độ được đào tạo đối với giáo viên mầm non, chị Ma Thị Mận cho rằng, cùng với xu thế phát triển chung, việc nâng chuẩn nghề nghiệp của giáo viên nói chung và giáo viên mầm non nói riêng là điều cần thiết, từng bước nâng cao chất lượng của đội ngũ giáo viên, đáp ứng yêu cầu của Chương trình GD mới.

Anh Nguyễn Trung Đức, Bí thư Đoàn Thanh niên, Tổng Công ty cổ phần Sông Hồng cho rằng: Về quy định nâng chuẩn giáo viên bậc mầm non (từ trung cấp lên cao đẳng sư phạm) và bậc tiểu học (đạt trình độ đại học) với lộ trình thực hiện từ nay đến năm 2026, đó là việc làm cần thiết. Vì chất lượng GD-ĐT các cấp nâng lên cao thì phải nâng cấp đồng bộ đội ngũ giáo viên.

Đặc biệt là chất lượng giáo dục mầm non, bởi trường mầm non không chỉ là nơi giữ trẻ mà là một nơi để đào tạo các lứa tuổi mầm non. Vì thế, đội ngũ giáo viên cần được đào tạo và bồi dưỡng đúng với chuyên môn và sát thực tế để phát triển và hiểu được tư duy của trẻ.

Theo anh Đức, chính sách không thu học phí đối với trẻ em mầm non 5 tuổi, học sinh THCS trường công lập và hỗ trợ đóng học phí đối với trẻ em, học sinh diện phổ cập tại cơ sở giáo dục dân lập là rất hợp lý. Để chính sách ưu việt này được triển khai khả thi, có hiệu quả, cần quy định rõ hơn về lộ trình thực hiện, triển khai theo từng vùng.

Phân vùng miễn học phí để khuyến khích các em vùng khó khăn chăm học, giảm bớt gánh nặng chi tiêu cho gia đình đồng thời xây dựng được uy tín của Nhà nước, ngành Giáo dục với nhân dân vùng cao, trong khi họ đang thiếu nhận thức đến các vấn đề phát triển của đất nước, đặc biệt là giáo dục.

Đặc biệt mức thu học phí tại các trường công lập và dân lập đang chênh lệch khá cao. Điều đó cho thấy rằng, chất lượng đào tạo giảng dạy công lập và dân lập đang khác nhau rõ rệt. Đó cũng là lý do cần nâng cấp chất lượng đội ngũ giáo viên đồng bộ; Lựa chọn giáo viên giảng dạy phù hợp với ngành học.

Giải Thích Ý Nghĩa Của Từ “Quan Trọng Là Ở Thần Thái” Là Gì Cụ Thể

Xin chào các bạn! Các bạn chắc có lẽ đã gặp rất nhiều coment ở trên Facebook hay là những bức ảnh status của các Fanpage lớn nhỏ có từ ” quan trọng là thần thái”…

Vậy ý nghĩa của từ đó là ra làm sao? Thần thái là gì? Nguồn gốc cũng như ý nghĩa của từ này ở đâu ra? được hiểu ra làm sao?..

Cùng tham khảo bài viết sau đây của vinhdlp để có thể hiểu rõ và chi tiết nhất hơn về nghĩa từ này

Ý nghĩa của “Quan trọng là ở thần thái”

+ Tiếng Anh có nghĩa là: Mood

Từ quan trọng là ở thần thái được sử dụng nhiều ở Facebook hiện nay có nghĩa là hãy tự tin sống với chính mình.. dù bạn có xấu đẹp hay làm sao vẫn bản lĩnh thể hiện phong độ trước đám đông.. Không nhất thiết phải chạy theo thời thượng mà luôn biết mình cần gì và làm gì

Và đấy, không biết bắt nguồn từ đâu mà câu nói “Quan trọng là thần thái” đang trở thành triết lý được nhắc đi nhắc lại trên khắp các trang mạng.

Luôn biết giữ gìn diện dạo, nhất là cặp mắt và khuôn mặt thể hiện độ cool ngầu điềm tĩnh và đặc biệt và tinh nhạy trên nét mặt của mình…

2/ Quan trọng là ở thần thái

Mặc dù tiết mục thật nhảm nhí và lố bịch nhưng thần thái cũng như độ tự tin hơi bựa của thanh niên này rất là đỉnh làm khán giả cũng như ban giám khảo phải bất ngờ và bật cười…

Còn đối với ai không hiểu vì sao câu nói này lại hot như vậy hoặc không hiểu ý nghĩa của nó thì họ có 1 cách đối đáp lại như thế này: “Quan trọng không phải là thần thái, quan trọng là important!”.

Trời đất ơi cộng đồng mạng nhà ta, chưa khi nào ngừng những điều tào lao mà dễ thành trend như vậy!

3/ Một số hình ảnh thần thái tốt

….

Từ khóa : than thai tot, stt than thai, dinh nghia than thai wikipedia, điều gì làm nên thần thái