Top 12 # Ý Nghĩa Om Mani Padme Hum Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 6/2023 # Top Trend | Drosetourmanila.com

Ý Nghĩa Của Om Mani Padme Hum

Lạt Ma Zopa Rinpoche Thanh Liên dịch

Hai từ này bao gồm toàn bộ con đường dẫn tới Niết bàn – sự giải thoát khỏi đau khổ và nguyên nhân đích thực của đau khổ. Tất cả những con đường của các thừa thấp được bao gồm trong phương tiện và trí tuệ; do đó, chúng được bao hàm bởi mani và padme. Toàn bộ con đường Ba La Mật thừa và con đường Bồ đề tâm đưa tới sự giác ngộ cũng được hoàn thiện bởi phương tiện và trí tuệ; vì thế nó cũng hoàn toàn được bao hàm trong mani và padme. Cuối cùng, toàn bộ con đường Kim Cương thừa – con đường của thừa (cỗ xe) bất khả phân, tantra, hay mật chú cũng được bao hàm bởi những phạm vi này.

Tantra có bốn phần, hay cấp độ. Cấp độ thứ nhất là kriya tantra, nó được chia thành tantra có biểu hiện và tantra không biểu hiện. Loại tantra có biểu hiện là con đường của phương tiện; loại tantra không có biểu hiện là con đường của trí tuệ; toàn bộ con đường kriya tantra được bao gồm trong mani và padme. Những tantra khác thì cũng thế. Nhờ thực hành loại tantra thứ tư là Yoga Tantra cao cấp nhất (maha-anuttara yoga tantra), chúng ta có thể đạt được giác ngộ – tâm toàn giác; trạng thái siêu việt viên mãn trong mọi sự chứng ngộ và được tịnh hóa mọi ô nhiễm – trong một đời người ngắn ngủi của thời đại suy hoại này. Có hai giai đoạn trong Yoga Tantra cao cấp nhất: giai đoạn phát sinh (đôi khi cũng được goi là giai đoạn sáng tạo, phát triển hay tiến triển) và giai đoạn thành tựu (hay hoàn thành). Những giai đoạn này được bao gồm trong mani và padme, phương tiện và trí tuệ. Giai đoạn thành tựu có bốn cấp độ: sự tách biệt của tâm; huyễn thân; tịnh quang và sự hợp nhất. Huyễn thân, con đường của phương tiện, được bao gồm trong mani; tịnh quang, con đường của trí tuệ, được bao gồm trong padme. Cũng thế, có hai loại tịnh quang: tịnh quang ý nghĩa và tịnh quang ví dụ.

Để chuyển hóa tâm thức thành con đường, trước tiên chúng ta phải đặt nền móng là ba phương diện chính yếu của con đường: sự từ bỏ, Bồ đề tâm và trí tuệ chứng ngộ tánh Không. Sự từ bỏ samsara (sinh tử) là tư tưởng hết sức nhàm chán sinh tử nhờ nhận ra rằng nó chỉ có bản tánh đau khổ; thấu hiểu rằng dưới sự sai sử của những tâm thức và nghiệp tiêu cực hỗn loạn, các uẩn của thân và tâm ta thì đau khổ tự bản chất. Thường thì chúng ta không tỉnh giác về điều này. Chúng ta có ảo tưởng rằng những sự vật có bản chất vô thường thì thường hằng; những gì nhơ bẩn tự bản chất thì trong sạch; những gì đau khổ tự bản chất thì vui thú; và những gì không có chut hiện hữu nào từ khía cạnh riêng của nó, là những gì chỉ đơn thuần được dán cho một danh hiệu, thì hiện hữu tự khía cạnh riêng của nó. Đây là quan điểm thông thường, ảo tưởng của chúng ta về thực tại. Sự từ bỏ là việc nhận ra sự thật là mọi sự hiện hữu có điều kiện đều có bản chất là đau khổ.

Chúng ta giống như những con bướm đêm nhìn thấy một ngọn lửa hừng hực như một nơi chốn đẹp đẽ để vui sống mà không hiểu được điều gì sẽ xảy ra khi chúng chạm vào nó. Chúng ta hoàn toàn ảo tưởng. Thậm chí nếu ngọn lửa bị che phủ thì chúng vẫn ráng hết sức để lao vào cho bằng được. Cho dù chúng cảm thấy lửa nóng, chúng vẫn cố gắng lao vào. Chúng cho rằng sự hy lạc phi thường nằm nơi phần chói sáng. Do đó điều gì sẽ xảy ra khi chúng thực sự lọt vào trong đó? Chẳng có chút xíu gì trong những điều chúng đã hy vọng. Hoàn toàn là một sự đối nghịch. Chừng nào mà chúng ta còn ở trong luân hồi sinh tử, cuộc đời ta cũng liên tục lầm lạc như thế.

Chúng ta không hình dung rằng tự bản chất cuộc đời ta thì hoàn toàn đau khổ; chúng ta theo đuổi tâm thức ảo tưởng của mình như thể nó đúng đắn một trăm phần trăm, như thể những ý niệm sai lầm của ta thật hoàn hảo. Chúng ta hoàn toàn tin tưởng ở những kế hoạch, những ảo tưởng của ta. Chúng ta tin chắc rằng những ý niệm sai lầm của ta thì hoàn toàn chân thật. Nó giống như việc nhìn một môi trường cháy đỏ là một công viên đẹp tuyệt trần và cố gắng lao vào đó, không nhận ra rằng ta sẽ bị thiêu đốt. Chúng ta nhìn cõi giới khổ đau này như một công viên tráng lệ.

Sự từ bỏ là việc nhận ra rằng luân hồi sinh tử của riêng ta chỉ là khổ đau tự trong bản chất; nhận ra rằng việc sống trong sinh tử thì giống như bị nhận chìm bởi những ngọn lửa hồng và cảm thấy không chịu nổi việc sống trong đó một giây phút mà không đạt được giai thoát. Khi ta cảm thấy nỗi khổ của riêng ta không thể chịu đựng nổi và tư tưởng tìm kiếm sự giải thoát xuất hiện một cách tự nhiên và liên tục, thì khi ấy chúng ta chứng nghiệm được sự từ bỏ luân hồi sinh tử.

Khi chúng ta thay đổi đối tượng và nghĩ về những người khác thay vì chính mình thì cảm xúc trở thành lòng bi mẫn. Khi đã có niệm tưởng mạnh mẽ về sự từ bỏ luân hồi sinh tử của riêng ta, khi ta quán chiếu về việc những người khác bị tóm bắt trong sinh tử và đau khổ, chúng ta bắt đầu cảm thấy một lòng bi mẫn kỳ lạ, mãnh liệt, không thể chịu đựng nổi; chúng ta cảm thấy không chịu nổi việc những người khác đang nằm trong sinh tử dưới sự kiểm soát của nghiệp và những niệm tưởng rối loạn của họ. Khi ta thấy những người khác bị tóm bắt trong sinh tử thì ta cảm thấy hết sức bất nhẫn, giống như bị một ngọn giáo đâm thủng trái tim, như một bà mẹ cảm xúc khi đứa con thân yêu duy nhất của bà rơi vào đống lửa. Thật không thể kham chịu nổi những điều như thế.

Theo cách đó, ta phát khởi lòng bi mẫn mãnh liệt phi thường ước muốn chúng sinh thoát khỏi đau khổ. Chúng ta không thể ngơi nghỉ mà không làm điều gì đó để cứu giúp họ. Không có cách nào để nghĩ về chính ta, hạnh phúc của riêng ta; không có cách nào để tư tưởng quan tâm tới bản thân ta xuất hiện. Chúng ta không thể sống lặng lẽ mà không làm điều gì để giải thoát chúng sinh. Ta không thể chịu nổi việc họ phải ở trong sinh tử cho dù chỉ một giờ hay một phút. Đúng như thế, với việc chứng nghiệm sự nhàm chán, chúng ta không thể đứng yên mà không thành tựu sự giải thoát của riêng ta, không thể chờ đợi dù chỉ một giây phút, mà giờ đây mục tiêu của chúng ta được nhắm vào những người khác. Khi ước muốn này xuất hiện, chúng ta chứng ngộ lòng bi mẫn vĩ đại – ước muốn tất cả chúng sinh có thể thoát khỏi mọi nỗi khổ và quyết định bản thân mình sẽ thực hiện ước muốn này.

Bồ đề tâm phát khởi từ thái độ này. Chúng ta tự hỏi: “Giải pháp lúc này là gì? Ta nên làm gì? Phương pháp nào tốt nhất cho ta để giải thoát tất cả chúng sinh thoát khỏi đau khổ?”. Chúng ta đi tới kết luận là phương cách duy nhất mà ta có thể dẫn dắt chúng sinh hoàn toàn thoát khỏi đau khổ là thành tựu tâm toàn giác.

Do đó, ước muốn phát triển một tâm toàn giác xuất phát từ cội gốc của lòng bi mẫn. Từ lòng đại bi, tâm vị tha của sự giác ngộ – Bồ đề tâm – được phát triển. Ở đây lòng bi mẫn phát khởi tự nhiên đối với tất cả chúng sinh không có sự phân biệt giữa bằng hữu, kẻ thù và những người xa lạ – là những người giúp đỡ ta, những người đối xử tệ bạc và chỉ trích ta, và những người không giúp đỡ cũng không làm hại ta. Đối tượng của nó là toàn bộ chúng sinh đau khổ và lòng bi mẫn ước muốn tất cả chung sinh thoát khỏi mọi sự che chướng. Lòng đại bi ước muốn tất cả những ai không có hạnh phúc vô song của sự giác ngộ được thành tựu trạng thái của tâm toàn giác và tự mình nhận lãnh trách nhiệm trong việc nhìn thấy họ thực hiện điều đó.

Với Bồ đề tâm phát khởi tự nhiên, chúng ta cảm thấy như người mẹ mà đứa con thân yêu duy nhất của bà bị rơi vào ngọn lửa. Chúng ta không thể đứng yên. Ngày lẫn đêm, trong mọi lúc, tâm vị tha của sự giác ngộ phát khởi không chút nỗ lực. Vào lúc đó, chúng ta đã chứng ngộ Bồ đề tâm. Người chứng ngộ Bồ đề tâm được gọi là người “may mắn”. Một người như thế thật minh triết, thiện xảo và bi mẫn. Những người trong tâm có một trái tim hết sức tốt lành, Bồ đề tâm, thì thực sự tuyệt hảo.

Trong phạm vi thế tục, những người có thể kiếm rất nhiều tiền, có thể giết chết kẻ thù, những người có nhiều căn nhà ở mọi nơi, được coi là người tài giỏi, khéo léo và khôn ngoan. Những người có thể lừa gạt người khác để bồi đắp cho thanh danh hay hạnh phúc của mình được cho là khôn ngoan, tài giỏi và tự lực. Những ý niệm này hoàn toàn sai lầm. Cho dù bạn có thể tự giải thoát mình khỏi sinh tử bạn vẫn không hoàn tất công việc của bạn đối với bản thân hay những người khác. Vì thế, những Bồ tát không tất yếu là thiện xảo hay bi mẫn, cho dù các Ngài có thể tự giải thoát bản thân các Ngài ra khỏi sinh tử. Do đó, trí tuệ của việc chứng ngộ tánh Không được thực hành sau sự chứng ngộ Bồ đề tâm.

Như thế, sau khi tâm thức bạn được tu hành tốt đẹp trong con đường tổng quát, bạn nhận lãnh sự nhập môn (quán đảnh) từ một Guru kim cương đầy đủ phẩm tính, là vị có thể ban những nhập môn Yoga Tantra cao cấp nhất. Một khi nhờ việc nhận lãnh bốn loại nhập môn Yoga Tantra cao cấp nhất mà tâm bạn được thuần thục, bạn tu hành tâm thức bằng cach thiền định về hai con đường của nó: những con đường tiệm thứ của sự phát triển và thành tựu. Khi tâm bạn đạt tới cấp độ tịnh quang, ví dụ, bạn giải thoát khỏi sự hiểm nguy của cái chết – không có cái chết không được kiểm soát, không có việc chết mà không có sự chọn lựa.

Như tôi đã đề cập ở trên, tịnh quang được biểu thị bởi padme, trí tuệ, và huyễn thân được biểu thị bởi mani, phương tiện. Nếu bạn có thể đạt tới giai đoạn này, bạn có thể đạt được giác ngộ trước khi chết, nhưng nếu bạn không thể, bạn có thể thành tựu tốt đẹp như thế sau khi chết, trong giai đoạn trung ấm, như nhiều Lạt ma cao cấp và yogi vĩ đại như Milarepa – bậc đã giác ngộ trong một đời.

Công đức phải tích tập trong ba vô lượng kiếp bằng cách đi theo con đường Ba la mật thừa có thể hoàn toàn được tích tập trong một đời ngắn ngủi bằng cách thiền định về huyễn thân. Tịnh quang là thuốc chữa lành cho cái thấy nhị nguyên; những niệm tưởng hỗn loạn và thậm chí cái thấy nhị nguyên vi tế có thể hoàn toàn ngừng dứt bằng cách thiền định về tịnh quang với sự hỗ trợ của công đức rộng lớn mà bạn tích tập bằng sự thiền định về huyễn thân. Theo cách này, bạn thành tựu sự hợp nhất thân hoàn toàn thiêng liêng thanh tịnh và tâm linh thánh của vị Phật hay Bổn Tôn mà bạn đang thực hành và trở thành một vị Phật.

Khi mặt trăng mọc, nó không cần phải nỗ lực để ánh phản chiếu của nó xuất hiện trên mặt nước: “Ta sắp phản chiếu trong mọi mặt nước trên Trái đất”. Bất kỳ nơi đâu có nước, ánh phản chiếu của mặt trăng tự động xuất hiện. Tương tự như thế, sau khi bạn trở thành một vị Phật, sau khi bạn thành tựu Bổn Tôn mà bạn từng thực hành, bạn sẽ làm việc một cách tự nhiên không cần cố gắng cho lợi ích của tất cả chúng sinh. Bạn sẽ làm việc liên tục với thân, khẩu và ý thiêng liêng của bạn để dẫn dắt chúng sinh bao la như không gian tới hạnh phúc vô song của tâm toàn giác.

Đây chỉ là một giải thích ngắn gọn về ý nghĩa của thần chú OM MANI PADME HUM, nhưng tôi hy vọng là từ đó bạn có thể nhận ra làm thế nào mani và padme – phương tiện và trí tuệ – bao gồm toàn bộ con đường tiệm thứ đưa tới giác ngộ.

Vậy thì, nếu tâm bạn như một tảng đá thì nó giống như đất không được chăm bón; nó không được chuẩn bị tốt. Cho dù bạn gieo trồng những hạt giống, chúng sẽ không phát triển. Nếu tâm bạn vị kỷ, cứng cỏi, ngập đầy sự sân hận và bất mãn, giống như sắt thép, giống như một ngọn núi đá, gay gắt, xấu xa, thì cho dù bạn mong muốn đạt được giải thoát hay sự giác ngộ viên mãn, con đường mà mani và padme bao hàm sẽ không phát triển trong đó. Đất cần được nước tưới mát và chứa đựng những khoáng chất và phân bón – nhờ thế những sự vật mới có thể phát triển trong đó. Cũng thế, tâm hiện tại của bạn cần thay đổi từ trạng thái đặc cứng, xấu xa, khó chịu của nó. Nó cần được chuyển hóa, trở nên mềm mại – nó cần những sự ban phước Đức Phật Đạo sư.

Cuối cùng, điều còn lại cần giải thích là om. Khi thực hành và thành tựu con đường phương tiện và trí tuệ trong tâm bạn được biểu hiện bởi mani và padme – sự tịnh hóa mọi che chướng, nghiệp tiêu cực và ý niệm bất tịnh, hay cái thấy, của thân, khẩu và ý. Khi thân, khẩu và ý của bạn được tịnh hóa như thế, chúng trở thành thân, khẩu và ý kim cương của Đức Đạo sư Chenrezig.

Chữ om (Phạn ngữ hay Tây Tạng) có ba phần. Thân của chữ này là ah, âm mẹ. Trên nó là một đường gợn sóng được gọi là (trong tiếng Tây Tạng) một naro, nguyên âm biến đổi âm “ah” thành “o”. Trên đó là một số 0 nhỏ, nó thêm vào âm “m”. Ba thành phần này thêm vào cho “om” và biểu hiện ba kaya (thân), hay thân, khẩu và ý kim cương. Những ý niệm bất tịnh của bạn về thân, khẩu và ý chuyển hóa thành thân, khẩu va ý kim cương hoàn toàn thanh tịnh của Đức Chenrezig, Đấng Bi mẫn vĩ đại. Như thế, om có nghĩa là sự giác ngộ.

Như vậy, đây là ý nghĩa của OM MANI PADME HUM; sự bắt đầu, hay nguyên nhân, của con đường, bản thân con đường, và kết quả. Nó giống như một cái cây với gốc, thân và quả. OM MANI PADME HUM cũng bao gồm mọi sự hiện hữu – sự duyên sinh và tánh Không: mani và padme. Mọi sự hiện hữu được gồm chứa trong hai chân lý; mọi điều này được bao hàm trong mani và padme: chân lý tuyệt đối trong padme, và chân lý quy ước, chân lý của tâm hoàn toàn bị ngăn che, trong mani.

Cách này hay cách khác, có một sự khác biệt khi bạn trì tụng thần chú của vị Phật đặc biệt này, hiện thân của lòng bi mẫn của tất cả chư Phật – lòng đại bi không thể chịu đựng nổi nỗi khổ của chúng sinh và đưa dẫn họ thoát khỏi nó. So với lòng bi mẫn mà ta dành cho bản thân mình thì lòng bi mẫn này lớn hơn hàng trăm ngàn lần. Không thể có một sự so sánh. Và lòng bi mẫn vô hạn này của tất cả chư Phật hiển lộ trong phương diện đặc biệt này mà ta gọi là Đức Chenrezig, Vị Phật Từ Thị (Nhìn Chúng Sinh Với Đôi Mắt Bi mẫn).

Do bởi lòng bi mẫn của Ngài, chính Đức Phật đã thành tựu Đại Niết bàn, phạm vi của an bình vĩ đại, không chút chọn lựa, được kết chặt bởi lòng bi mẫn. Chúng ta thì trái ngược lại: không chọn lựa, bị buộc chặt bởi những tư tưởng ích kỷ, chúng ta mang lại tai họa cho chúng sinh khác và thậm chí cho cả bản thân ta. Được kết buộc bởi lòng bi mẫn, chư Phật hiển lộ trong phương diện Báo thân đối với các Bồ tát cao cấp và trong phương diện Hóa thân đối với những Bồ tát bình thường. Đối với chúng sinh bình phàm, các Ngài hiển lộ trong thân tướng của một tu sĩ, như Đưc Đạt lai Lạt ma, hay một vị vua; trong những thân tướng khác nhau, bất kỳ điều gì cần thiết. Nếu có một biểu thị sẽ điều phục chúng sinh thì đó là cách các Ngài sẽ hiển lộ – như một quan tòa, một tướng lãnh hay thậm chí như một đồ tể hay một người khùng điên; như một người mù hay hành khất để làm cho những người khác tích tập công đức bằng cách thực hành lòng bác ái và nhờ đó tạo nên nguyên nhân cho hạnh phúc. Nếu một vài chúng sinh cần được dẫn dắt theo lối đó, các Ngài sẽ hiển lộ như một người giàu có; nếu một người khác cần được hướng dẫn trong một phương diện đặc biệt, và nếu đó là cách thế duy nhất để điều phục tâm thức của người đó, thì do bơi sự tham luyến mãnh liệt của anh ta, các Ngài sẽ hiển lộ như một gái điếm. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã tuyên bố trong giáo lý của Ngài: “Ta sẽ không hiển lộ như tất cả những điều này”. Ngài nói, “Ta không tham đắm nhưng ta hiển lộ như có tham luyến; ta không mù nhưng hiển lộ như mù lòa; ta không què nhưng hiển lộ như què quặt; ta không điên nhưng hiển lộ như khùng điên; ta không chút giận dữ nhưng hiển lộ như sân hận. Trong tương lai nếu ta hiển lộ trong những cách thế như thế, sẽ không chúng sinh nào nhận ra điều này”. Tuy nhiên, để đưa dẫn chúng ta, Ngài đã hiển lộ là Đấng Ngàn Tay Ngàn Mắt (Thiên Thủ Thiên Nhãn) và thần chú của Đức Phật Bi Mẫn thì có phần khác biêt với những thần chú khác. Những thần chú khác rất mạnh mẽ nhưng thần chú này có một vài tính cách hay tác dụng đặc biệt – trong khi nó được trì tụng thì tâm thức trở nên an bình và bi mẫn hơn nữa một cách tự nhiên; tư tưởng làm lợi lạc người khác phát khởi tự nhiên và hành giả bớt có tư tưởng tự-quy.

Thông thường thì những người bình thường trì tụng OM MANI PADME HUM có một trái tim tốt lành cho dù họ không thấu hiểu giáo lý hay thiền định về con đường tiệm thứ dẫn tới giác ngộ. Điều này xảy ra hoàn toàn nhờ vào niềm tin nơi Đức Phật Bi Mẫn, Đấng Bi mẫn vĩ đại và việc trì tụng thần chú của Ngài. Bạn cần có một trái tim tốt lành ngay cả để có được hạnh phúc trong đời này, sự an bình của tâm hồn trong đời sống hàng ngày. Một trái tim tốt lành là điều vô cùng cần thiết; nó là cách thế duy nhất. Việc trì tụng thần chú này rất ích lợi. Nó có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với tâm thức.

Khi bạn trì tụng thần chú OM MANI PADME HUM bạn không nên cảm nhận thái quá về thân tướng của Đức Chenrezig mà nên cảm nhận về tinh túy hay bản tánh của Ngài. Nếu bạn không thoải mái khi quán tưởng Ngài ở trên đỉnh đầu bạn thì hãy quán tưởng Ngài ở trước mặt. Hãy quán tưởng lòng đại bi đối với tất cả chúng sinh hiển lộ trong phương diện ngàn tay ngàn mắt. Bản tánh của thân linh thánh của Ngài là ánh sáng. Ngài đang mỉm cười và đây bi mẫn, đôi mắt từ ái nhìn thẳng vào bạn – một chúng sinh đau khổ, lầm lạc – và cũng nhìn tất cả chúng sinh khác. Nếu bạn có thể làm được, hãy quán tưởng một chữ HRIH trên một đĩa mặt trăng nằm trên một bông sen tám canh trong trái tim Ngài. Từ đây, những tia cam lồ phóng ra và đi vào bạn, tịnh hóa bạn về mọi lỗi lầm, đặc biệt là thái độ ích kỷ, là chướng ngại chính cho việc phát triển Bồ đề tâm của bạn. Trong khi quán tưởng theo cách này, hãy trì tụng OM MANI PADME HUM trong mức độ bạn có thể.

theo Báo Giác Ngộ Online

Ý Nghĩa Câu Chú: Om Mani Padme Hum

Om Mani Padme Hum là một câu thần chú tiếng Phạn, được xem là thần chú cầu Quán Thế Âm Bồ Tát (Avalokiteshvara) và là thần chú quan trọng và lâu đời nhất của Phật giáo Tây Tạng. Nó còn được mệnh danh là “Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn” tức là “Chân ngôn sáng rõ bao gồm sáu chữ”.

Om : Quy mệnh Mani : Viên ngọc như ý Padme : Bên trong hoa sen Hum : Tự ngã thành tựu

Có thể dịch câu này là Om, ngọc quý trong hoa sen, Hum. (Om, to the Jewel in the Lotus, hum). Theo âm Hán-Việt, câu này được đọc là Úm ma ni bát ni hồng hoặc Án ma ni bát mê hồng.

Thông thường người ta không giảng nghĩa thần chú, nhưng ở đây cần nói thêm là: “ngọc quý” biểu hiện cho Bồ-đề tâm (bodhicitta), “hoa sen” chỉ tâm thức con người, ý nghĩa là tâm Bồ-đề nở trong lòng người. Tuy nhiên thần chú có những âm thanh riêng biệt và những tác dụng bí ẩn theo cách trình bày của Kim cương thừa. Đối với Phật giáo Tây tạng thì Om Mani Padme Hum chính là lòng từ bi rộng lớn, muốn đạt Niết-bàn vì lợi ích của chúng sinh. Vì vậy sáu âm tiết của thần chú này cũng được xem là tương ưng với sáu cõi tái sinh của dục giới.

*

Dịch Việt : Mỹ Thanh

Các thần chú là biểu hiện của âm thanh bắt nguồn từ sự rỗng không. Nó là âm thanh xác thực của khoảng trống không.

Bắt nguồn từ khái niệm về chân lý tuyệt đối và trạng thái rỗng không, câu chú không hiện hữu. Không có âm thanh hay câu chú. Âm thanh và câu chú, như tất cả những dạng biểu thị khác nhau, đều ở vị trí của cõi tương đối xuất hiện từ rỗng không. Trong cõi tương đối, mặc dù âm thanh chính nó không có thực thể, nó vẫn có năng lực để chỉ định, đặt tên, và có sự hoạt động ở tâm thức.

Thí dụ, khi có ai đó nói với chúng ta ” Anh là một người tốt ” hoặc ” Anh là một người khó ưa ” , những chữ ” tốt ” hoặc ” khó ưa ” không phải là ” vật gì ” . Đó chỉ là những âm thanh mà tự nó không ” tốt ” hay ” khó ưa “, nhưng đơn giản gợi lên ý nghĩ về ” tốt ” hoặc ” khó ưa “, và gây ra một tác dụng nơi tâm thức. Cũng như vậy, trong phạm vi tương đối nơi hành động, thần chú được phú cho một năng lực không thể sai lạc.

Các câu chú thường là tên các vị Phật, Bố Tát, hoặc thần thánh. Thí dụ, OM MANI PADME HUNG (ÁN MA-NI BÁT DI HỒNG) là cách gọi ngài Chenrezig (Quán Âm). Từ quan điểm tuyệt đối, Chenrezig không có tên, nhưng trong phạm vi ý nghĩa tương đối hoặc nghĩa đen, ngài có tên gọi riêng. Những tên nầy là trung gian của lòng từ bi, vẻ thanh nhã, và sức mạnh cùng các nguyện ước của ngài làm lợi ích cho chúng sinh. Bằng cách niệm danh hiệu của ngài để những phẩm chất tâm thức nầy được truyền đến ta. Ở đây, việc giải nghĩa về năng lực lợi ích của thần chú, danh hiệu của ngài. Như chúng ta đồng hóa chúng ta với tên họ và những gì liên hệ đến nó, cũng bằng cách nầy, trên bình diện tương đối, thần chú đồng nhất với vị thần. Cả hai trở thành một thực tại duy nhất. Khi một người niệm chú, người ấy nhận được vẻ thanh nhã của vị thần; bằng cách hình dung vị thần, vị thánh ấy, người niệm chú nhận được vẻ thanh nhã không khác biệt của các vị thánh.

Thần chú OM MANI PADME HUNG đôi lúc được giải thích với những ý nghĩa cầu kỳ và thần bí. Tuy nhiên, như chúng ta đã nói, đây đơn giản chỉ là tên của Bố Tát Quan Âm (Chenrezig) được đặt giữa hai âm thanh truyền thống và thiêng liêng, OM và HUNG.

– OM tượng trưng cho thân các vị Phật, các thần chú đều bắt đầu từ âm nầy. – MANI nghĩa ” châu báu ” trong Sanksrit; – PADME, phát âm theo Sankrit, or PEME trong tiếng Tây Tạng, có nghĩa ” hoa sen “; – HUNG tượng trưng cho tâm thức tất cả các vị Phật và thường là câu cuối trong các thần chú. – MANI nói về châu báu mà Bố Tát Quan Âm (Chenrezig) cầm trong hai tay giữa và PADME là hoa sen cầm ở tay trái thứ nhì. Khi gọi MANI PADME là gọi tên ngài Chenrezig xuyên qua những phẩm hạnh của ngài : ” Người đang cầm châu báu và hoa sen. ” ” Chenrezig ” hoặc ” Hoa sen báu ” là hai tên gọi của ngài Chenrezig (Quán Âm).

Khi chúng ta niệm chú, thật ra chúng ta đang tiếp tục lặp lại tên ngài Chenrezig. Thực tập nầy có lẽ trông lạ lùng. Tỷ như có một người mang tên Sonam Tsering và chúng ta lặp đi lặp lại tên người đó không ngừng nghỉ theo kiểu đọc thần chú. Sonam Tsering, Soanm Tsering, Sonam Tsering, v..v.. Điều nầy thật là lạ và có thể là vô dụng. Mặt khác, nếu như niệm câu chú OM MANI PADME HUNG thì có ý nghĩa hơn, vì câu chú nầy được ” đầu tư ” bởi sự thanh nhã và năng lực tâm thức của ngài Quan âm (Chenrezig), ngài Chenrezig đã gom sự thanh nhã và từ bi của tất cả các vị Phật và Bố Tát. Trong cách nhìn nầy, câu chú được phú cho khả năng vén màn tâm tối, và thanh tịnh hóa tâm thức chúng ta. Thần chú mở mang tâm thức thương yêu và từ bi, đưa đến sự tỉnh thức giác ngộ.

Các vị bồ tát và thần chú là một nguyên thể, nghĩa là một người có thể niệm chú mà không cần thiết phải hình dung, tưởng tượng. Niệm chú vẫn có hiệu quả. Phẩm chất xác thực của mỗi âm trong sáu âm của câu chú được giải thích rất phù hợp.

Trước tiên, hãy để chúng ta xem mỗi âm giúp chúng ta đóng cánh cửa tái sanh đau khổ, một trong sáu cõi hiện hữu của vòng luân hồi: – OM đóng cánh cửa luân hồi trong cõi trời; – MA, cánh cửa cõi thần, A-tu-la – NI, cánh cửa cõi người – PAD, cánh cửa cõi súc sanh – ME, cánh cửa cõi ngạ quỷ; – HUNG, cánh cửa cõi địa ngục.

Ở Tây Tạng, mọi người thường tụng niệm thần chú của ngài Chenrezig (Quan Âm). Sự đơn giản và phổ thông của thần chú không làm giảm đi sự to tát của thần chú, và còn có giá trị to lớn hơn. Điều nầy được thể hiện trong câu nói khôi hài sau:

Ở đoạn khởi đầu, không có đau khổ vì không biết, Ở đoạn giữa, không có lòng tự kiêu vì hiểu biết, Ở đoạn cuối, không sợ quên câu chú.

Không có sự hiểu biết về lý luận, y học, chiêm tinh học, và những môn khoa học khác là sự đau khổ, bởi vì một người có thể bỏ nhiều năng lực, cố gắng và chấp nhận nhiều mệt mỏi để học hỏi nó. Tuy nhiên, trong vài giây ngắn ngủi đã đủ để học thuộc thần chú của ngài Chenrezig. Không cần đối diện với đau khổ từ si mê cho đến hiểu biết. Bởi vì vậy, ” Ở đoạn đầu không có đau khổ vì không biết. “

Một người sau mấy năm học hỏi môn khoa học khó khăn sẽ nhận được danh vọng hoặc chức vị ở xã hội, và họ hoàn toàn hài lòng với bản thân và tin rằng họ giỏi hơn tất cả những người khác. Thần chú đơn giản của ngài Chenrezig giúp cho một người tránh rơi vào tình trạng nói trên. Như vậy, ” Ở đoạn giữa, không kiêu ngạo khi hiểu biết. “

Cuối cùng, nếu chúng ta không gìn giữ câu chú, sự hiểu biết mà chúng ta thâu thập được trong y học, chiêm tinh học, hoặc những môn khoa học khác có thể dần dà bị mai một. Nhưng không thể nào quên được sáu âm tiết câu chú. OM MANI PADME HUNG. Vậy, ” Ở đoạn cuối, không sợ quên câu chú. “

Cũng vậy, từ những bài ghi chú của tôi ” Cơn mưa liên tục làm lợi ích cho Chúng Sinh “:

– OM là màu TRẮNG; – MA, màu XANH LÁ CÂY; – NI , màu VÀNG; – PAD, màu XANH DA TRỜI; – ME, màu ĐỎ; – HUNG, màu ĐEN.

Câu chú có thể được tóm tắt như sau : ” Tôi cầu xin hiện thân của năm dạng và năm ý thức chuyển hóa, Vị bồ tát sỡ hữu viên ngọc và hoa sen để bảo hộ tôi thoát khỏi những nỗi đau khổ của chúng sinh trong sáu cõi. “

OM MANI PADME HUNG là bản tóm tắt của bộ sưu tập kiến thức trực tiếp của tất cả các vị Phật. Những chỉ dẫn bao gồm trong mỗi âm của sáu âm tiết, là bản chất Tinh Thông Bí mật về các vị Phật, là nguồn gốc của tất cả mọi phẩm chất và hạnh phúc sâu sắc, gốc rễ của các thành tựu lợi ích, sung sướng, và là con đường vĩ đại đưa đến những hiện hữu và tự do cao cả.

*

Nguồn: Phần phụ lục sách: “Tạng thư Sống Chết” The Tibetan Book Of Living And Dying Sogyal Rinpoche Ni sư Thích Nữ Trí Hải dịch

Tạng ngữ đọc là Om Mani Pémé Hung. Thần chú này tiêu biểu tâm đại bi và ân sủng của tất cả chư Phật, Bồ-tát, nhất là ân sủng của Quán Tự Tại, vị Phật của lòng bi mẫn. Quán Tự Tại (hay Quán Thế Âm) là hiện thân của Phật trong hình thức Báo thân, và thần chú của ngài được xem là tinh túy của lòng bi mẫn của chư Phật đối với hữu tình. Nếu Ngài Liên Hoa Sinh là bậc thầy quan trọng nhất của người Tây Tạng, thì Quán Tự Tại là vị Phật quan trọng nhất của họ, là vị thần hộ mệnh của dân tộc này. Có câu nói nổi tiếng là vị Phật của lòng bi mẫn đã ăn sâu vào tiềm thức Tây Tạng tới nỗi một hài nhi vừa biết nói tiếng “Mẹ” là đã biết đọc thần chú này, OM MANI PADME HUM.

Tương truyền vô lượng kiếp về trước có một ngàn thái tử phát tâm Bồ-đề nguyện thành Phật. Một vị nguyện thành Phật Thích Ca mà ta đã biết ; nhưng Quán Tự Tại thì nguyện sẽ không đạt thành Chính giác khi mà tất cả ngàn thái tử chưa thành. Với tâm đại bi vô biên, ngài còn nguyện giải thoát tất cả chúng sinh ra khỏi khổ sinh tử luân hồi trong lục đạo. Trước mười phương chư Phật, ngài phát nguyện: “Nguyện cho con cứu giúp được tất cả hữu tình, và nếu có khi nào con mệt mỏi trong công việc lớn lao này thì nguyện cho thân con tan thành một ngàn mảnh”.

Đầu tiên, ngài xuống cõi địa ngục, tiến lên dần đến cõi ngạ quỷ, cho đến các cõi trời. Từ đấy ngài tình cờ nhìn xuống và trông thấy than ôi, mặc dù ngài đã cứu vô số chúng sinh thoát khỏi địa ngục, vẫn còn có vô số khác đang sa vào. Điều này làm cho ngài đau buồn vô tận, trong một lúc ngài gần mất tất cả niềm tin vào lời nguyện vĩ đại mà ngài đã phát, và thân thể ngài liền nổ tung thành ngàn mảnh. Trong cơn tuyệt vọng, ngài kêu cứu tất cả chư Phật. Những vị này từ mười phương thế giới đều bay đến như mưa tuyết để tiếp cứu. Với thần lực nhiệm mầu, chư Phật làm cho ngài hiện toàn thân trở lại, và từ đấy Quán Tự Tại có mười một cái đầu, một ngàn cánh tay, trên mỗi lòng tay có một con mắt. Ý nghĩa rằng sự phối hợp giữa trí tuệ và phương tiện thiện xảo là dấu hiệu của đại bi chân thực. Trong hình thức này, ngài còn sáng chói rực rỡ, và có nhiều năng lực hơn trước để cứu giúp tất cả chúng sinh. Tâm đại bi của ngài khi ấy còn mãnh liệt hơn nữa, và ngài lại phát lời nguyện này trước chư Phật: “Con nguyện không thành Chính giác khi tất cả chúng sinh chưa thành”.

Tương truyền rằng vì đau buồn trước nỗi khổ luân hồi sinh tử, hai giọt nước mắt đã rơi từ đôi mắt ngài, và chư Phật đã làm phép biến hai giọt nước mắt ấy thành hai nữ thần Tara. Một nữ thần có màu xanh lục, năng lực hoạt động của tâm đại bi, và một nữ thần có màu trắng, khía cạnh như mẹ hiền của tâm đại bi. Tara có nghĩa là người giải cứu, người chuyên chở chúng ta vượt qua biển sinh tử.

Theo kinh điển đại thừa, chính Quán Tự Tại đã cho đức Phật câu thần chú, và đức Phật trở lại giao phó cho ngài công tác cao quý đặc biệt là cứu giúp tất cả chúng sinh tiến đến giác ngộ. Vào lúc ấy, chư thiên tung hoa xuống ca ngợi hai ngài, quả đất chấn động, và không trung vang lên âm thanh OM MANI PADME HUM HRIH.

Có câu thơ về ngài ý nghĩa như sau:

” Quán Thế Âm như vầng trăng, với ánh sáng mát dịu, dập tắt những thiêu đốt của sinh tử. Trong ánh sáng ấy, đóa sen từ bi – lọai hoa nở về đêm – mở ra những cánh trắng tinh khôi ” .

Giáo lý giải thích rằng mỗi âm trong sáu âm của thần chú OM MANI PADME HUM có một hiệu quả đặc biệt để mang lại sự chuyển hóa thuộc nhiều tầng lớp khác nhau của bản thể ta. Sáu âm này tịnh hóa tất cả sáu phiền não gốc, biểu hiện của vô minh khiến chúng ta làm những ác nghiệp của thân, lời, ý, tạo ra luân hồi sinh tử và những khổ đau của chúng ta, trong đó kiêu mạn, ganh tị , dục vọng, ngu si, thèm khát và giận dữ, nhờ thần chú mà được chuyển hóa trở về bản chất thực của chúng, trí giác của sáu bộ tộc Phật thể hiện trong tâm giác ngộ. (Chú thích: Giáo lý thường nói đến năm bộ tộc Phật, bộ tộc thứ sáu là tổng hợp của năm bộ tộc trên).

Bởi thế, khi ta tụng thần chú OM MANI PADME HUM thì sáu phiền não nói trên được tịnh hóa, nhờ vậy ngăn ngừa được sự tái sinh vào sáu cõi, xua tan nỗi khổ ẩn tàng trong mỗi cõi. Đồng thời thần chú này cũng tịnh hóa các uẩn thuộc ngã chấp, hoàn thành sáu hạnh siêu việt của tâm giác ngộ (sáu ba la mật): bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ. Người ta cũng nói rằng thần chú OM MANI PADME HUM có năng lực hộ trì rất lớn, che chở ta khỏi những ảnh hưởng xấu và các thứ tật bệnh.

Thường có chủng tự HRIH của Quán Thế Âm được thêm vào sau câu thần chú, làm thành OM MANI PADME HUM HRIH. HRIH là tinh yếu tâm đại bi của tất cả chư Phật, là chất xúc tác đã khởi động tâm đại bi chư Phật để chuyển hóa các phiền não của ta thành bản chất trí tuệ của các ngài.

Kalu Rinpoche viết:

Một cách khác để giải thích thần chú này là: OM là tính chất của thân giác ngộ, MANI PADME tiêu biểu ngữ giác ngộ, HUM tiêu biểu ý giác ngộ. Thân, ngữ, ý của tất cả chư Phật được tàng ẩn trong âm thanh của thần chú này. Thần chú này tịnh hóa những chướng ngại của thân, lời, ý, và đưa tất cả hữu tình đến trạng thái chứng ngộ. Khi tụng thần chú này, mà phối hợp với đức tin và tinh tiến thiền định thì năng lực chuyển hóa của thần chú sẽ phát sinh và tăng trưởng. Quả vậy, chúng ta có thể tịnh hóa bản thân bằng phương pháp ấy.

Đối với những người đã quen thuộc với thần chú này, suốt đời tụng đọc với nhiệt thành và niềm tin, thì Tử Thư Tây Tạng nói, ở trong cõi Trung Ấm: “Khi âm thanh của pháp tính gầm thét như ngàn muôn sấm sét, nguyện cho tất cả tiếng này trở thành âm thanh của thần chú sáu âm”. Tương tự, kinh Lăng Nghiêm cũng nói:

“Mầu nhiệm thay là âm thanh siêu việt của Quán Thế Âm. Đấy là âm thanh tối sơ của vũ trụ… Đó là tiếng thì thầm âm ỉ của thủy triều trầm lắng. Tiếng mầu nhiệm ấy đem lại giải thoát bình an cho tất cả hữu tình đang kêu cứu trong cơn đau khổ, và đem lại một sự an trú thanh tịnh cho tất cả những ai đang tìm sự thanh tịnh vô biên của niết bàn”.

*

Đức Đạt-lai Lạt-ma thuyết giảng, Hồng Như Việt dịch Nguyên bản tiếng Anh: Om Mani Padme Hum, by HH the Dalai LamaHồng Như chuyển Việt ngữ.

Trì tụng minh chú Om mani padme hum [Án ma ni bát di hồng] là một việc rất tốt. Tuy vậy, khi tụng chú cần phải nhớ nghĩ đến ý nghĩa của lời chú, vì sáu âm này mang ý nghĩa thâm sâu quảng đại vô cùng. Âm thứ nhất, OM, là tổng hợp của ba mẫu tự A, U và M, tượng trưng cho thân miệng ý ô nhiễm của người tụng chú, đồng thời cũng tượng trưng cho thân miệng ý thanh tịnh của Phật đà.

Có thể nào chuyển thân miệng ý ô nhiễm thành thân miệng ý thanh tịnh được không? hay đây là hai phạm trù hoàn toàn tách biệt? Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm, mang đủ mọi tánh đức. Thân miệng ý thanh tịnh đến từ sự tách lìa trạng thái ô nhiễm, chuyển hóa ô nhiễm thành thanh tịnh.

Chuyển hóa bằng cách nào? Phương pháp tu được nhắc đến qua bốn âm kế tiếp. MANI [ma ni], nghĩa là ngọc báu, tượng trương cho phương tiện, là tâm bồ đề, vì chúng sinh mà nguyện mở tâm từ bi, đạt giác ngộ. Cũng như viên ngọc quí có khả năng xóa bỏ cảnh nghèo, tâm bồ đề cũng vậy, có khả năng xóa bỏ sự bần cùng khó khăn trong cõi luân hồi và niết bàn cá nhân. Như ngọc như ý có khả năng chu toàn mọi ước nguyện của chúng sinh, tâm bồ đề cũng vậy, có khả năng chu toàn mọi ước nguyện chúng sinh.

Hai chữ PADME [bát mê], nghĩa là hoa sen, tượng trưng cho trí tuệ. Hoa sen từ bùn mọc lên nhưng lại không ô nhiễm vì bùn. Tương tự như vậy, trí tuệ có khả năng đặt người tu vào vị trí không mâu thuẫn ở những nơi mà người thiếu trí tuệ đều sẽ thấy đầy mâu thuẫn. Có nhiều loại trí tuệ, trí tuệ chứng vô thường, trí tuệ chứng nhân vô ngã (con người không tự có một cách độc lập cố định), trí tuệ chứng tánh không giữa các phạm trù đối kháng (nói cách khác, giữa chủ thể và khách thể) và trí tuệ chứng sự không có tự tánh. Mặc dù có nhiều loại trí tuệ, nhưng chính yếu vẫn là trí tuệ chứng tánh Không.

Trạng thái thanh tịnh có được là nhờ sự kết hợp thuần nhất giữa phương tiện và trí tuệ, được thể hiện qua âm cuối, HUM [hồng]. Âm này ứng vào trạng thái bất nhị, không thể phân chia. Trong hiển thừa, phương tiện và trí tuệ bất nhị có nghĩa là phương tiện ảnh hưởng trí tuệ, và trí tuệ ảnh hưởng phương tiện. Trong mật thừa, sự hợp nhất này ứng vào một niệm tâm thức trong đó phương tiện và trí tuệ đồng loạt hiện hành. Nói về chủng tự của năm vị Thiền Phật, HUM là chủng tự của Bất Động Phật [Akshobhya], sự đứng yên không gì có thể lay chuyển nổi.

Lạt ma Thubten Zopa Rinpoche Người dịch: Thanh Liên Nguyên tác: The Benefits of Chanting Om Mani Padme Humhttp://www.lamayeshe.com/lamazopa/ommanipadmehum.shtml

Vậy Lục Tự Đại Minh Chú, Om mani padme hum, có nghĩa là dựa vào đường tu kết hợp thuần nhất phương tiện và trí tuệ mà người tu có thể chuyển hóa thân miệng ý ô nhiễm của mình thành thân miệng ý thanh tịnh của Phật. Thường nói người tu không thể tìm Phật ở bên ngoài, tất cả mọi nhân tố dẫn đến giác ngộ đều sẵn có từ bên trong. Đức Di Lạc Từ Tôn có dạy trong bộ Tối Thượng Đại Thừa Mật Luận (Uttaratantra) rằng tất cả chúng sinh đều có Phật tánh trong tâm. Chúng ta ai cũng mang sẵn trong mình hạt giống thanh tịnh, cốt tủy của Như Lai (Tathatagarbha – Như lai tạng), đó là điều cần nuôi nấng phát triển đến mức tột cùng để bước vào địa vị Phật đà.

*

Ý Nghĩa Của Câu Chú Om Mani Padme Hum

Om Mani Padme Hum hay “Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn” (Thần chú sáng rõ bao gồm sáu chữ). là một câu thần chú tiếng Phạn được xem là của Quán Thế Âm Bồ Tát (Avalokiteshvara). Om Mani Padme Hum là thần chú quan trọng và lâu đời nhất của Phật giáo Tây Tạng.

Theo phiên âm Hán-Việt, câu này được đọc là Úm ma ni bát ni hồng hoặc Án ma ni bát mê hồng. Mỗi một từ trong câu chú được dịch sát nghĩa như sau:

Om : Quy mệnh

Mani : Viên ngọc như ý, biểu hiện cho Bồ-đề tâm (bodhicitta)

Padme : Bên trong hoa sen, chỉ tâm thức con người

Hum : Tự ngã thành tựu

Thông thường người ta không giảng nghĩa, dịch chân ngôn/ thần chú, Nhưng ở đây nói nôm na, câu chú là Om, ngọc quý trong hoa sen, Hum. (Om, to the Jewel in the Lotus, hum) hay hiểu một cách thoát nghĩa hơn là tâm Bồ-đề nở trong lòng mỗi người.

Đối với Phật giáo Tây Tạng thì Om Mani Padme Hum chính là lòng từ bi rộng lớn, thể hiện tâm muốn cầu quả vị giải thoát, Niết-bàn vì lợi ích của tất cả chúng sinh.

Om Mani Padme Hum là tinh hoa kiến thức trực tiếp của tất cả các vị Phật. Những chỉ dẫn bao gồm trong mỗi âm của sáu âm tiết, là bản chất Tinh Thông Bí mật về các vị Phật. Đó là nguồn gốc của tất cả mọi phẩm chất và hạnh phúc sâu sắc, gốc rễ của các thành tựu lợi ích, sung sướng, và là con đường vĩ đại đưa đến những hiện hữu và tự do cao cả. Trong ý nghĩa nầy, câu chú được phú cho khả năng vén màn tâm tối, và thanh tịnh hóa tâm thức chúng ta. Câu chân ngôn mở mang tâm thức thương yêu và từ bi, đưa đến sự tỉnh thức giác ngộ.

Và còn rất rất nhiều những sự liên hệ khác nhau của sáu chữ này với những khái niệm khác.

Ở Tây Tạng, mọi người thường tụng niệm thần chú OM MANI PADME HUM, sự đơn giản và phổ thông của thần chú không làm giảm đi sự to tát của nó mà còn có giá trị to lớn hơn. Vì là câu chú của Phật, Bồ Tát nên thường được khắc lên các vật phẩm trang trọng, quý giá như kinh luân, phù điêu, bùa hộ mệnh, nhẫn, vòng… Khi sử dụng người ta thường phải tôn trọng câu chú như tôn trọng hình ảnh của chư Phật, Bồ Tát.

The Silk Road sưu tầm & Tổng hợp

The Silk Road – Chuyên Kinh Doanh Các Sản Phẩm Độc & Lạ, Trang Sức Nghệ Thuật

Địa chỉ showroom: Số 15 Phan Kế Bính, P. Đa Kao, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh Facebook: chúng tôi Và: https://www.facebook.com/thesilkroad.jewellery

Cách thức mua hàng: Quý khách có thể mua hàng trực tiếp tại showroom hoặc COD nội thành TP. HCM, chuyển khoản thanh toán với các Tỉnh/ Thành phố khác.

Nghiên Cứu Về Thần Chú Om Mani Padme Hum

Lê Tự Hỷ

I. DẠNG VIẾT CỦA CÂU THẦN CHÚ

Câu thần chú “Om Mani Padme Hūm” là một trong những câu thần chú nổi tiếng nhất trong Phật giáo, được các Phật tử theo pháp tu niệm Phật, và đặc biệt là Phật tử tu theo Mật tông như Phật giáo Tây Tạng tụng đọc trong mọi nghi thức tu tập.

Câu thần chú nầy được viết bằng tiếng Phạn (Devanāgarῑ) là: ॐमणिपद्मेहूँ hay: ओंमणिपद्मेहूं. Phiên âm quốc tế ra La tinh (IAS: International Alphabet of Sanskrit Transliteration) thành: “Om Mani Padme Hūm”.

Các cao tăng nhiều nơi trên thế giới đã phiên âm câu thần chú trực tiếp từ tiếng Phạn ra nhiều thứ tiếng khác như Trung Quốc, Tây Tạng, Nhật Bản, Triều Tiên, Thái Lan… Phiên âm ra tiếng Trung Quốc thành: 唵嘛呢叭咪吽 (pinyin: Ǎn Mání Bāmī Hōng ). Trong kinh 佛 說 大 乘 莊 嚴 寶 王 : Phật Thuyết Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương Kinh (Karaṇḍavyūha Sūtra) thì viết là: 唵麼抳缽訥銘吽 (Ǎn Mání Bōnàmíng hōng). Người Việt chúng ta đã không phiên âm trực tiếp từ tiếng Phạn ra tiếng Việt mà đọc câu phiên âm của Trung Quốc theo âm Hán Việt thành: “Úm ma ni bát mị hồng” hay: “Ảm ma ni bát mễ hồng”. Trong Kinh Karaṇḍavyūha thì đọc thành: “Úm Ma Ní Bát Nột Minh Hồng.”

Bây giờ, nếu chúng ta phiên âm trực tiếp từ tiếng Phạn ra tiếng Việt thì câu thần chú nầy thành: “Ôm Ma Ni Pa (đơ) Mê Huum”. (chữ đơ đọc nhỏ liền với chữ Pa thành một âm, uu đọc dài gấp đôi u). Phiên âm ra tiếng Tây Tạng đọc: “Om Mani Peme Hung” hay “Om Mani Beh Meh Hung.” Phiên âm ra tiếng của một số mước khác (1):

– Bengali: ওঁমণিপদ্মেহুঁ

– Tamil: ஓம்மணிபத்மேஹூம்

– Hàn Quốc ( Hangul): 옴마니파드메

Om Mani Padeume Hum hay: 옴마니반메훔 Om Mani Banme Hum

– Nhật Bản (Katakana) :オンマニハンドメイウン On Mani Handomei Un

– Mông Cổ: Ум маани бадми хум hay Um maani badmi khum

– Thái Lan: โอมมานีปัทเมหุม

Theo Stuholme, Alexander (2). thì thần chú nầy được tìm thấy đầu tiên trong kinh Karaṇḍavyūha (佛 說 大 乘 莊 嚴 寶 王 經: Phật Thuyết Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương Kinh) trong Phật giáo Trung Quốc. Trong kinh nầy đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói rằng: “Đây là câu thần chú lợi lạc nhất. Ngay cả ta cũng gởi ước vọng nầy tới tất cả triệu vị Phật và nhờ đó đã nhận được lời dạy nầy từ đức Phật A Di Đà” (3).

Tuy nhiên, một số học giả Phật học khác lại cho rằng câu thần chú nầy đã được sử dụng để tu tập trong Phật giáo Tây Tạng là dựa vào tác phẩm Sādhanamālā được xuất bản vào thế kỷ 12 (4).

Chúng ta đã biết thần chú “Om Mani Padme Hūm” là một trong những thần chú nổi tiếng nhất trong Phật giáo. Cũng là một trong những thần chú được dùng phổ biến nhất. Và cũng sẵn sàng dành cho bất kỳ ai cảm thấy muốn thực hành việc tụng niệm vì không đòi hỏi một nghi thức hướng dẫn trước bởi một đạo sư nào.

Thần chú nầy được biết là thần chú của Bồ-tát Quán Thế Âm (Bồ-tát Quán Tự Tại: Avalokiteśvara, tiếng Trung Quốc là Guanyin: Quan Âm, tiếng Tây Tạng là Chenrezig). Ngài được biết là hiện thân của Lòng Từ Bi của đức Phật. Đó là thần chú đặc biệt quan trọng trong Phật giáo Tây Tạng.

– Theo Phật giáo Tây Tạng, thần chú nầy là thần chú ứng với dạng Ṣaḍakṣarῑ sáu tay của ngài Bồ-tát Quán Thế Âm (Quán Tự Tại, Avalokiteśvara, Chenrezig). Đức Đạt Lai Lạt Ma (Dalai Lama) được cho là vị tái sinh của Bồ-tát Quán Thế Âm, cho nên câu thần chú nầy được tôn kính một cách đặc biệt bởi những người sùng kính ngài.

– Sự yêu cầu nghiêm ngặt của giới Bà La Môn ở Ấn Độ về sự phát âm tuyệt đối chính xác của tiếng Phạn trong các câu thần chú bị thất bại khi Phật giáo được truyền sang các nước khác vì ở những nơi đó các cư dân địa phương không thể nào phát âm chính xác câu thần chú bằng tiếng Phạn được.

Vì thế ở Tây Tạng, nơi mà mặc dầu câu thần chú nầy luôn được vô cùng coi trọng, và luôn ở trên môi của nhiều người trong tất cả những giờ thức dậy, nó được người Tây Tạng đọc thành: “Om mani peme hung” hay “Om Mani Beh Meh Hung”, thay vì: “Om Mani Padme Hūm” (nguyên âm tiếng Phạn).

– Người Phật tử Tây Tạng tin rằng trì chú (niệm chú) “Om Mani Padme Hūm” hoặc bằng cách phát âm to lên, hoặc thầm lặng cho riêng mình nghe, hoặc niệm trong tâm trí, hoặc nhìn câu chữ của thần chú, thì cũng có tác dụng như nhau: Thỉnh được lòng yêu thương và cứu độ của Bồ-tát Quán Thế Âm, ngài là hiện thân của lòng Từ Bi của đức Phật.

Chính vì nhìn bản viết của thần chú cũng đươc cho là có cùng hiệu quả, cho nên câu thần chú nầy thường được khắc trên đá, và được đặt ở những nơi người ta có thể thấy được.

Hoặc câu thần chú được viết bên trong các guồng quay được bằng tay, gọi là guồng quay Mani (Mani wheel), tức là guồng quay cầu nguyện (prayer wheel) để cho Phật tử (Tây Tạng) quay guồng và đồng thời nhìn thấy câu thần chú quay trong guồng. Rất nhiều guồng quay Mani nhỏ hay lớn với hàng triệu bản chép câu thần chú Om Mani Padme Hūm ở bên trong được thấy ở mọi nơi trong những vùng đất có ảnh hưởng của Phật giáo Tây Tạng.

3.1 Phân tích theo nghĩa đen:

Nhiều người, đặc biệt là các học giả người Tây phương cho rằng ngoài hai từ Om và hūm ở hai đâu thì giữa câu chính là manipadme trong đó: mani là viên ngọc, còn padme là ở thể locative (chỉ vị trí) của từ padma (danh từ giống trung, nghĩa là hoa sen), cho nên manipadme được dịch ra là Viên Ngọc Trong Hoa Sen. Và họ đã dịch câu thần chú thành: “Hãy nhìn! Viên ngọc quý trong hoa sen!” (Behold! The jewel in the lotus! )

Nhưng Donald Lopez, trong sách có nhan đề “Những Người Tù của Shangri-La: Phật giáo Tây Tạng và phương Tây (5) đã phản đối việc gán ý nghĩa đó, vì ông cho rằng ý nghĩa đó có được do sự phân tích rập khuôn về thần chú của những nhà Đông phương học gốc Tây phương. Ý nghĩa nầy không chấp nhận được theo phân tích ngôn ngữ hoc, và cả theo truyền thống Tây Tạng. Và Lopez cho rằng đó là triệu chứng của phương pháp tiếp cận kỳ lạ về Đông phương của những nhà Đông phương học người Tây phương!

Theo Lopez thì “manipadme” không phải do hai từ mani và padme ghép lại trong đó padme là ở thể locative (vị trí cách) của padma (hoa sen), mà manipadme là ở thể vocative (hô cách, diễn tả nói với ai) của từ manipadma, mà manipadma là một danh hiệu khác của Bồ-tát Quán Thế Âm (Quán Tự Tại: Avalokiteśvara, Chenrezig), ngài có nhiều danh hiệu khác nhau.

Lopez cũng lưu ý rằng đa số kinh sách Phật giáo Tây Tạng xem việc dịch nghĩa câu thần chú nầy là việc thứ yếu, mà chủ yếu là tập chú vào sự tương ứng của 6 âm của câu thần chú với nhiều nhóm khác nhau gồm 6 đặc trưng trong Phật pháp. Chẳng hạn, trong The Chenrezig Saddhana, Tsangar Tulku Rinpoche mở rộng ý nghĩa của câu thần chú, lấy 6 âm tượng trưng cho sự thanh tịnh hóa 6 cõi luân hồi (6).

3.2 Sáu Âm Tiết Trong Thần Chú: Thanh Tịnh Hóa Sáu Cõi Luân Hồi (Ṣaḍākula, Lục đạo: 六 道)

Tsangar Tulku Rinpoche (7), đã cho rằng 6 âm tiết trong thần chú Om Mani Padme Hūm là để thanh tịnh hóa 6 cõi luân hồi như sau:

– Om: Thanh tịnh hóa cõi Trời, nơi ở của chư Thiên (Deva), bằng cách giúp chư Thiên loại bỏ tính tự phụ, kiêu căng (pride) và thỏa mãn với hạnh phúc tròn đầy (bliss), và cầu mong họ được tái sinh vào cõi Hoàn Hảo của ngài Quán Thế Âm (Perfect Realm of Potala).

– Ma: Thanh tịnh hóa cõi A-tu-la (nơi ở của các vị thần Āsura), bằng cách giúp các vị thần A-tu-la loại bỏ tính ganh tỵ (Jealousy) và lòng ham muốn các thú vui (Lust for entertainment), và mong muốn họ tái sinh vào cõi Hoàn Hảo của ngài Quán Thế Âm (Perfect Realm of Potala).

– Ni: Thanh tịnh hóa cõi Người (Human) bằng cách giúp loại bỏ lòng đăm mê và tham muốn (passion/desire), và mong muốn họ tái sinh vào Thế Giới Cực Lạc (tiếng Tây Tạng: Dewachen) của đức Phật A Di Đà.

– Pad: Thanh tịnh hóa cõi Súc Sinh (Animal) bằng cách giúp loại bỏ ngu dốt, vô minh và thành kiến (ignorance/prejudice), và mong muốn được tái sinh vào cõi Có Sự Hiện Diện của Bồ-tát Quán Thế Âm (The Presence of Protector (Chenrezig)).

– Me: Thanh tịnh hóa cõi Ngạ Quỷ ( Preta, Hungry Ghost) bằng cách giúp loại bỏ sự nghèo đói, thiếu thốn vật dụng (poverty/possessiveness) và mong muốn được tái sinh vào cõi Hoàn Hảo của Bồ-tát Quán Thế Âm (The Perfect Tealm of Potala)

– Hūm: Thanh tịnh hóa cõi Địa Ngục (nơi ở của Naraka, chúng sinh trong địa ngục) bằng cách giúp loại bỏ tính xâm lấn, gây hấn, và lòng căm thù (aggression/hatred), và mong được tái sinh vào cõi Có Tòa Sen của ngài Quán Thế Âm (The Presence of Lotus Throne of Chenrezig) .

3.3 Sáu Âm Tiết Trong Câu Thần: Chú Giúp Hoàn Thành Sáu Ba La Mật (Ṣaḍpāramitā, lục độ: 六 度, lục ba la mật đa: 六波 籮 蜜 多)

Một cách khác trong việc tìm sự tương ứng của 6 âm tiết của câu thần chú với 6 đặc trưng của Phật pháp đã được Gen Rinpoche, viết trong tài liệu Kho Tàng Của Các Bậc Giác Ngộ (8) như sau:

“Cái thần chú Om Mani Päme Hum là dễ tụng niệm mà lại có năng lực lớn lao, bởi vì nó chứa cái cốt lõi của toàn bộ lời dạy của đức Phật. Khi bạn tụng đọc âm đầu tiên Om thì bạn được độ để hoàn thiện trong việc thực hành Bố Thí (Generosity), âm Ma giúp hoàn thiện việc thực hành Trì Giới, âm Ni giúp hoàn thiện việc thực hành Nhẫn Nhục, âm Pad giúp hoàn thiện việc thực hành Tinh Tấn, âm Me giúp hoàn thiện việc thực hành Thiền Định, và âm cuối cùng Hūm giúp hoàn thiện việc thực hành Trí Tuệ.

Như thế theo cách nầy, việc tụng niệm thuộc lòng câu thần chú sẽ giúp hoàn thiện việc thực hành 6 Ba La Mật từ Bố Thí tới Trí Tuệ. Con đường của 6 Ba La Mật nầy là con đường đã đi qua bởi tất cả chư Phật trong ba thời. Thế thì còn gì có ý nghĩa hơn là tụng niệm câu thần chú và hoàn thành sáu Ba La Mật?”

3.4 Sáu Âm Tiết Của Thần Chú: Giúp Không Tái Sinh Trong Sáu Cõi Luân Hồi. (Ṣaḍākula, lục đạo: 六道)

Trong ý hướng tương ứng ấy, Karma Thubten Trinley cho rằng 6 âm tiết trong thần chú nầy giúp hành giả không tái sinh trong 6 cõi luân hồi, nghĩa là thoát vòng sinh tử. Ngài viết rằng:

“Đó là Sáu âm ngăn cản sự tái sinh vào trong sáu cõi luân hồi. Câu thần được dịch theo nghĩa đen là “Om viên ngọc quý trong hoa sen Hūm”. Om ngăn cản sự tái sinh trong cõi Trời (god realm), Ma ngăn cản sự tái sinh trong cõi Thần A Tu La (Asura(Titan) Realm), Ni ngăn cản sự tái sinh trong cõi Người (Human Realm), Pad ngăn cản sự tái sinh trong cõi Súc Sinh (Animal Realm), Me ngăn cản sự tái sinh trong cõi Ngạ Quỹ (Hungry ghost Realm), và Hūm ngăn cản sự tái sinh trong cõi Địa Ngục (Hell Realm)”.

3.5 Giải Thích Của Ngài Đạt Lai Lạt Ma thứ 14

Trong bài giảng trên một trang web về ý nghĩa của “Om Mani Padme Hūm” (9), ngài Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 đã viết:

“Đọc tụng câu thần chú Om Mani Padme Hūm thì là rất tốt, nhưng trong khi bạn làm như thế, bạn nên nghĩ về ý nghĩa của nó, vì ý nghĩa của sáu âm là thâm sâu và rộng…Trước tiên, Om […] tượng trưng cho thân, khẩu, và ý không thanh tịnh của hành giả; nó cũng tượng trưng cho thân, khẩu và ý thanh tịnh đáng tán dương của một vị Phật […]”

” Con đường tu được chỉ ra bởi bốn âm kế tiếp. Mani, có nghĩa là viên ngọc, tượng trưng cho những yếu tố của phương tiện, phương pháp: chủ yếu là tâm bồ đề, là đại từ, đại bi, lòng từ bi, vị tha để trở thành giác ngộ […]”

“Hai âm padme, có nghĩa hoa sen, tượng trưng cho trí tuệ, tuệ giác tánh Không […]”

“Hūm tượng trưng cho sự hợp nhất giữa phương tiện, phương pháp tu (là từ bi) và trí tuệ, tuệ giác tánh Không”

“Tu là quá trình thanh tịnh hóa. Quá trình thanh tịnh hóa phải được hoàn thành bởi sự hợp nhất không thể phân chia được của phương tiện, phương pháp tu và trí tuệ […]”.

“Như vậy sáu âm, Om Mani Padme Hūm, có nghĩa là trong quá trình thực hành một đường lối tu mà đó là một sự hợp nhất không thể phân chia được giữa phương tiện, phương pháp tu là lòng từ bi và trí tuệ, tuệ giác tánh Không, bạn có thể biến đổi dần dần thân, khẩu và ý không thanh tịnh của bạn thành thân, khẩu, và ý thanh tịnh đáng tán dương của một vị Phật “

3.6 Quan Điểm của Lama Anagarika Govinda và Dilgo Khyentso Rinpoche

Lama Anagarika Govinda, trong sách Nền Tảng Của Mật Giáo Tây Tạng (10) cho rằng một thần chú như “Om Mani Padme Hūm” thì có thể chứa nhiều tầng ý nghĩa khác nhau, không thể dịch thành một câu đơn giản được.

Dilgo Khyentso Rinpoche trong bài giảng “Kho Tàng Chủ Yếu Của Các Bậc Giác Ngộ” (11), đã nêu ra ý tưởng:

“Không một khía cạnh đơn độc nào trong 84 nghìn pháp môn của đức Phật mà không hàm chứa trong câu thần chú gồm 6 âm tiết của Avalokiteśvara “Om Mani Padme Hūm”, và cũng như những tính chất của “Mani = ngọc quý” được ngợi ca mãi mãi trong kinh sách … Dù vui hay buồn, nếu chúng ta nương tựa vào “Mani “, thì ngài Chenrezig (Quán Thế Âm) sẽ không bao giờ bỏ mặc chúng ta, lòng mộ đạo sâu sắc sẽ tự phát khởi, trổi dậy trong tâm chúng ta và Đại thừa Phật giáo sẽ được thực thi một cách dễ dàng”.

Tại sao ngài Dilgo Khyentso Rinpoche nói như thế? Tất cả lời dạy của đức Phật đều dựa trên sự khám phá của ngài về sự có mặt trong cuộc đời của những cái mà con người cho là khổ, cái mà ngài cho là không cần thiết trong cuộc đời. Ngài đã chỉ ra những nguyên nhân gây ra khổ, và cũng đã chỉ ra những cách thức để diệt các nguyên nhân ấy phù hợp cho những đối tượng khác nhau, trong những hoàn cảnh khác nhau.

Một trong những phương cách đó là phát triển lòng Từ Bi. Mà lòng Từ Bi là cốt lõi của Phật giáo Đại thừa. Ngài Quán Thế Âm Bồ-tát là hiện thân của Lòng Từ Bi của Đức Phật. Câu thần chú nầy là câu thần chú dành cho sự chiêu cảm sự cứu độ của ngài Quán Thế Âm.

Việc tụng niệm câu thần chú nầy trong lúc thực hành quán tưởng, chúng ta tưởng tượng bản thân chúng ta là một vị Phật, trong trường hợp nầy là ngài Quán Thế Âm, đức Phật của Từ Bi (Buddha of Compassion, tức Chenrezig trong tiếng Tây Tạng). Việc thực hành này sẽ giúp chúng ta thay thế ý nghĩ của bản thân chúng ta là của chúng ta bởi ý nghĩ của bản thân chúng ta như là của đức Quán Thế Âm. Nhờ đó, chúng ta sẽ dần dần giảm bớt và cuối cùng loại bỏ được sự bám chặt vào cái ngã của chúng ta.

Điều nầy sẽ mở rộng lòng từ bi của chúng ta tới bản thân chúng ta và tới những người khác, và trí thông minh và trí tuệ của chúng ta được nâng cao lên, cho phép chúng ta nhận thấy rõ ràng những gì mà một người nào đó thật sự cần và chúng ta trao đổi ý kiến với họ một cách rõ ràng và chính xác (12).

Nhờ đó, chúng ta mới giúp đỡ được họ, tức là chúng ta thể hiện được tác dụng của Phật pháp. Đó là một biểu hiện của giác ngộ, mục đích của lời Phật dạy.

Vậy thực tập tụng niệm câu thần chú theo tinh thần quán tưởng ấy, chính là thực hành toàn bộ lời dạy của đức Phật.

3.7 Ý Nghĩa Câu Thần Chú Qua Sự Biến Đổi Lời Nói Của Kalu Rinpoche (Transformation of Speech)

Ngài Kalu Rinpoche, trong chương Bốn Pháp Của Gampopa của sách Phật Pháp (13), đã nêu lên ý nghĩa tác dụng của câu thần chú Om Mani Padme Hūm là thần chú ấy đã giúp hành giả đi đến giác ngộ nhờ biến đổi lời nói. Ngài viết như sau:

Trong Kim Cương Thừa (Vajrayāna), chúng ta tụng niệm và quán tưởng về câu thần chú ấy, đó là: Âm thanh giác ngộ, Lời nói của Bồ Bát Của Lòng Từ Bi, Sự kết hợp giữa Âm Thanh và Tánh Không. Nó không có thực thể nội tại, nhưng chỉ là biểu hiện của âm thanh thuần túy, diễn ra đồng thời với Tánh Không của nó.

Nhờ qua cái thần chú nầy, chúng ta không còn bám víu vào cái thực thể của lời nói và âm thanh gặp phải trong đời sống, nhưng thực chứng nó là Không về mặt bản chất. Thế rồi sự nhiễu loạn của do tác động của lời nói trong thân tâm chúng ta được biến đổi thành sự giác ngộ.

Ban đầu, sự kết hợp giữa Âm Thanh và Tánh Không chỉ là một khái niệm trí tuệ về những gì mà sự thiền quán của chúng ta nên hướng tới. Rồi nhờ qua việc áp dụng liên tục, khái niệm ấy trở thành thực chứng của chúng ta. Ở đây, cũng như ở mọi khía cạnh khác trong thực hành, thái độ của hành giả là quan trọng hơn cả.”

Sự giác ngộ ấy bao gồm tất cả những gì chúng ta có thể cần hiểu biết để cứu giúp tất cả chúng sinh kể cả bản thân chúng ta, thoát khỏi đau khổ. Vì lý do nầy mà toàn thể Phật pháp, toàn thể chân lý về bản chất của đau khổ và nhiều con đường diệt nguyên nhân của khổ, được cho là chứa trong sáu âm tiết nầy (14).

Riêng người viết bài nầy chỉ là một kẻ sơ cơ trước tòa lâu đài Phật pháp. Nhưng khi nghe, đọc và tìm hiểu câu thần chú Om Mani Padme Hūm cũng xin nêu ra hướng tìm ý nghĩa:

1. Nếu mani trong câu thần chú quả là viên ngọc, thì viên ngọc là biểu tượng của cái gì trong Phật pháp?

2. Nếu padme quả là locative (chỉ vị trí) của padma (hoa sen) thì padme là trong hoa sen, trên hoa sen, nơi hoa sen, … Thế thì hoa sen, rồi trong hoa sen, trên hoa sen, … là biểu tượng của cái gì trong Phật pháp?

Theo hướng “ngây ngô” đó, người viết xin nêu ra một số ý như sau: Mani là viên ngọc, đá quý, … là một trong 7 báu (thất bảo, saptaratna) mà nhiều Kinh Phật như Kinh A Di Đà, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Kinh Vô Lượng Thọ hay dùng để chỉ tính chất đẹp đẽ và trang nghiêm nơi các Cõi Phật, đặc biệt Cõi Cực Lạc của đức Phật A Di Đà. Như vậy Mani trong câu thần chú không những chỉ một báu, mà tượng trưng cho cả bảy báu.

Mặc khác, trong Kinh Pháp Bảo Đàn thì ngài Lục Tổ Huệ Năng giảng Thất Bảo (bảy báu) chính Thất Thánh Tài, tức là bảy món tài sản của bậc thánh gồm : Tín, Giới, Văn, Xả, Huệ, Tàm, Quý. Có nghĩa là người tu theo Phật phải phát khởi niềm tin vững mạnh để tiến tu; nghiêm mật giữ gìn giới luật; nghiên cứu đọc tụng kinh điển, lắng nghe và học hiểu các lời giảng giải, hướng dẫn đúng đắn của các đạo sư, các thiện tri thức; buông xả những buộc ràng vướng mắc trong tâm thức, không chấp trước vào lời nói, hành động của người, không giữ mãi trong tâm những gì tốt xấu, vừa ý, nghịch lòng; tìm cầu sự sáng suốt của trí tuệ; luôn lưu tâm để nhận biết lỗi do mình gây ra, tự sám hối để chừa bỏ các lỗi lầm; đối với người thì luôn lưu tâm để tự biết hổ thẹn khi lỡ phạm lỗi lầm (dù người không lưu tâm).

Như vậy mani trong câu thần chú tượng trưng không những cho các tính chất đẹp đẽ, trang nghiêm của ngoại cảnh trong cõi Phật mà còn tượng trưng cho cả các tính chất tốt đẹp cần phải có trong tâm thức của hành giả để hành giả mới có thể theo chân các bậc thánh đi vào cõi Phật.

Còn hoa sen thì đươc tôn quý vô cùng, và được nêu lên rất nhiều lần trong các kinh sách Phật.

Xin nêu ra ở đây vài điển hình:

Hình ảnh hoa sen đầu tiên xuất hiện trong đạo Phật là ngay khi đức Phật vừa đản sanh, tức khi thái tử Tất Đạt Đa Cồ Đàm ( Siddhārtha Gautama) vừa được sinh ra, ngài đi bảy bước thì hoa sen nở đỡ bước chân ngài.

Trong Nhiếp Thừa Luận Thích, hoa sen được cho là có bốn đặc tính: hương thơm, thanh tịnh, mềm mại, và khả ái là bốn đặc tính được dùng để tượng trưng cho bốn đức tính Thường, Tịnh, Ngã, Lạc của Niết bàn (15). Bốn đức tính ấy cũng là bốn đức tính của Phật pháp thân (16).

Với những đặc tính cao quý đó, hoa sen thường được dùng làm hình tượng tòa ngồi (tòa sen) cho các vị Phật, Bồ Tát, khi các ngài thuyết pháp hay thiền định.Trong Kinh Bổn Sanh Tâm Địa Quán, các loại hoa sen dùng làm tòa ngồi cho các vị Phật khi các ngài giảng pháp cho các hàng Bồ-tát như sau:

– Giảng Bách Pháp Minh Môn: Chư Phật ngồi trên hoa sen trăm cánh.

– Giảng Thiên Pháp Minh Môn: Chư Phật ngồi trên hoa sen ngàn cánh.

– Giảng Vạn Pháp Minh Môn: Chư Phật ngồi trên hoa sen vạn cánh (17). Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa thì hoa sen là biểu tượng của Tính giác tròn đầy và có sẵn trong tất cả chúng sanh (18).

Trong Kinh A Di Đà các hoa sen ở ao thất bảo, biểu trưng cho phẩm đức và hạnh nguyện của người chân tu. Người tu theo pháp môn niệm Phật, khi được sanh về cõi Tịnh độ, tùy ở phẩm hạnh mà được hoá sanh vào một trong các loại sen đó. Khi vãng sanh, tùy theo phước huệ quy định trong 9 phẩm, mà hoa sen sẽ nở và tỏa chiếu ánh hào quang, liền sau khi được sanh về, hoặc sau 1 ngày đêm, hoặc sau 7 ngày, 49 ngày, hoặc sẽ phải sau nhiều kiếp (19).

Như thế padme trong câu thần chú (ở trong hoa sen , ở nơi hoa sen, trên hoa sen, …) phải chăng là ý nói được vãng sanh về cõi Cực Lạc của Phật A Di Đà, cũng là được sống thường xuyên với tính giác, với Phật pháp thân, …, rồi cuối cùng là có đủ tư cách để được ngồi trên tòa sen như một vị Phật, tức là giác ngộ viên mãn, đạt quả Phật.

Như vậy, khi đọc câu thần chú “Om Mani Padme Hūm”, hành giả sẽ có sự chiêu cảm của ngài Bồ-tát Quán Thế Âm (Quán Tự Tại), thật ra, ngài được phát khởi lên trong tâm hành giả từ vị thế sẵn có, bẩm sinh tiềm ẩn trong chính thân tâm hành giả, và qua đó hành giả có được sự tinh tấn trong việc tiến tu theo ý nghĩa:

– Giúp cho hành giả biết rõ tình chất trang nghiêm, đẹp đẽ của cảnh giới hay quốc độ của đức Phật mà hành giả hướng đến theo pháp tu của mình.

– Giúp cho hành giả biết rõ bản thân mình cần phải được trang bị những hành trang, tư lương gì để có thể tiến tu.

– Giúp cho hành giả biết rõ rằng nếu mình một khi đã trang bị đầy đủ hành trang, và quyết tâm tu tập thì chắc chắn sẽ đạt đến quả Phật.

Vậy câu thần chú nầy tạo ra một sách tấn, một nguồn cổ vũ mạnh mẽ cho người tu vì không những cho người tu thấy rõ lộ trình sẽ đi và giúp biết chuẩn bị đầy đủ hành trang để đi, mà còn cho thấy sẽ đi đến quả Phật.

Riêng với các hành giả theo Thiền tông, dù không sử dụng câu thần chú nầy, nhưng như đã nêu trên, câu thần chú nầy nhắc nhở hành giả là tánh giác (chân tâm) có sẵn trong thân tâm và hãy luôn tỉnh thức để sống được với tánh giác.

Ngoài ra, hoa sen, nơi hoa sen, …, còn nhắc cho hành giả nhớ lại câu chuyện “Niêm Hoa Vi Tiếu” (拈 花 微笑: Cầm hoa mỉm cười: đức Phật đưa hoa lên, ngài Ca Diếp mỉm cười).

Trong bài “Nói Chuyện Về ‘Niêm Hoa Vi Tiếu” (20) có đoạn như sau:

“Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhân thiên nhãn” quyển 5, có đoạn ghi chép như sau:

Vương Kinh Công (Vương An Thạch) hỏi Thiền sư Tuyền Phật Huệ:

– Thiền gia nói Thế Tôn niêm hoa có từ kinh điển nào vậy?

Tuyền nói:

– Tạng kinh không thấy có.

Công nói:

– Nơi Hàn Uyển (21), tôi thấy có ba quyển “Đại Phạm Thiên Vương Vấn Phật Quyết Nghi kinh”, bèn đọc, trong kinh văn ghi thật rõ: Phạm Vương đến Linh Sơn hiến Phật cành hoa “Ba la” màu vàng kim, buông mình làm sàng tọa, thỉnh Phật vì chúng thuyết pháp.

Thế Tôn đăng tòa đưa cành hoa lên thị chúng, nhân thiên hội chúng lúc đó có cả trăm vạn thảy đều ngơ ngẩn lặng thinh, chỉ có Kim sắc Đầu Đà Ca Diếp nở mặt cười mỉm, Thế Tôn liền nói:

Ta đã có Chính pháp Nhãn tàng, Niết bàn Diệu tâm, Thực tướng Vô tướng, nay phó chúc cho Ma Ha Ca Diếp.”

Trong sách ” Ba Mươi Hai Vị Tổ Ấn Hoa”, mục Ma Ha Ca Diếp (Mahākā śyapa ), Hòa thượng Trúc Lâm viết (22):

” Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu). Phật bảo:

– Ta có chánh Pháp nhãn tạng, Niết-bàn diệu-tâm, pháp môn mầu nhiệm, chẳng lập văn tự, ngoài giáo lý truyền riêng, nay giao phó cho ngươi. Ngươi khéo gìn giữ chánh pháp nầy, truyền trao mãi đừng cho dứt, đến sau sẽ truyền cho A Nan. Thế-Tôn đến trước tháp Đa Tử gọi Ma Ha Ca Diếp (Mahākāśyapa) đến chia nửa tòa cho ngồi, lấy y Tăng-già-lê quấn vào mình Ca Diếp, rồi nói kệ phó pháp:

Pháp bổn pháp vô pháp Vô pháp pháp diệc pháp Kim phó vô pháp thời Pháp pháp hà tằng pháp.

Dịch:

Pháp gốc pháp không pháp Pháp không pháp cũng pháp Nay khi trao không pháp Mỗi pháp đâu từng pháp.”

Như vậy, ngoài việc câu thần chú Om Mani Padme Hūm nhắc cho hành giả Thiền tông biết là tánh giác, chân tâm là sẵn có nơi thân tâm mình, hãy tỉnh thức để sống với tánh giác mọi lúc, mọi nơi, thì câu thần chú nầy cũng nhắc cho hành giả biết là Thiền tông vốn được chính đức Phật trao truyền cho Ma Ha Ca Diếp (Mahākāśyapa), và dạy ngài trao truyền lại cho hậu thế, đừng để đứt mạng mạch.

Thế thì ngày hôm nay, hành giả Thiền tông, dù là người Việt Nam chúng ta, cũng cần ý thức trách nhiệm của bản thân mình trong việc giữ gìn và trao truyền lại mạng mạch của Thiền tông cho thế hệ mai sau.

Vậy câu thần chú đã chuyển tải một thông điệp vô cùng có ý nghĩa đối với hành giả Thiền tông.

Tóm lại, những phân tích trên cho chúng ta biết các vị cao tăng và cả những học giả Phật học uyên thâm hiểu như thế nào về câu thần chú nổi tiếng bậc nhất trong Tinh độ tông và đặc biệt trong Mật tông: Om Mani Padme Hūm

Ngoài ra, người viết bài nầy là kẻ sơ cơ cũng đã xin nêu lên ý tưởng “ngây ngô” của mình. Nhưng dù hiểu ý nghĩa như thế nào thì Phật pháp nói chung, và câu thần chú nầy nói riêng không phải để hiểu suông, mà điều quan trong là để thực hành.

Mỗi trường phái Phật giáo có nghi thức thực hành riêng. Trong phần trên, chúng ta cũng đã thấy qua việc sử dụng, thực hành câu thần chú nầy trong truyền thống Phật giáo Tây Tạng.

Nhưng rõ ràng dù thực hành theo trường phái nào, tâm thái của hành giả trong lúc thực hành là vô cùng quan trọng: làm sao cho cả thân, khẩu, và ý tham gia triệt để vào quá trình tu tập.

Tài liệu tham khảo và chú thích

1. http://en.wikipedia.org/wiki/Om_mani_padme_hum

2. Studholme, Alexander (2002). The Origins of Om Manipadme Hum: A Study of the Karandavyuha Sutra. State University of New York Press. pp. 256. ISBN 0791453901). 3. This is the most beneficial mantra. Even I made this aspiration to all the million Buddhas and subsequently received this teaching from Buddha Amitabha.”(Khandro.net: Mantras).

4. Li, Yu. “Analysis of the Six Syllable practice – the relationship between The Six Syllable and Amitabha”. http://www.cqvip.com/QK/80443X/2003002/8922419.html.

5. Donald Lopez, Prisoners of Shangri-La : Tibetan Buddhism and the West, p. 331 6. Donald Lopez, Prisoners of Shangri-La : Tibetan Buddhism and the West, p. 130 7. Tsangar Tulku Rinpoche , The Chenrezig Saddhana 8. Gen Rinpoche , The Treasure of The Enlightened Ones, . ISBN 0-87773-493-3. 9. H.H. Tenzin Gyatso, 14th Dalai Lama, Web page The Meaning of “Om Mani Padme Hum” và Tenzin Gyatso, His Holiness the Dalai Lama , Cultivating A Daily Meditation, Library of Tibetan Works and Archives, 1993 10. Govinda (Lama Anagarika), Foundations of Tibetan Mysticism, London : Rider, 1959 11. Dilgo Khyentse Rinpoche’s teaching “Heart Treasure of the Enlightened Ones,” was given at Tibet House in New York in 1984 and published in the volume titled Essence of Buddhism: Teachings at Tibet House 12. The Meaning of Om Mani Padme Hum ,http://dharma-haven.org/tibetan/meaning-of-om-mani-padme-hung.htm

13. Kalu Rinpoche , The Dharma (http://dharma-haven.org/tibetan/meaning-of-om-mani-padme-hung.htm ) 14. The Meaning of Om Mani Padme Hum, (http://dharma-haven.org/tibetan/meaning-of-om-mani-padme-hung.htm) 15. Thích Thông Huệ, Hình tượng Hoa Sen trong Đạo Phật http://www.buddhismtoday.com/viet/cuocsong/hoasen_daophat.htm

16. Đoàn Trung Còn, Phật Học Từ Điển, Nhà Xuất Bản Tổng Hợp TP. Hồ Chí Minh, chúng tôi tr. 593 17. Xem 15. 18. Xem 15. 19. Chánh Sĩ, Chú Nghĩa Kinh A Di Đà, http://www.vuonlam.us/01_NAM2009/03_PhatGiao/A2_TaiLieu/3A2a_KinhLuatLuan/01_KINH/0090713_ChuNghia_KinhADiDa/0090713_ChuNghia_KinhADiDa.htm

20. Pháp Như Lý Lược Tam, “Nói Chuyện Về ‘Niêm Hoa Vi Tiếu’ “, http://phattuvietnam.net/nghiencuu/46/2796.html (ngày 11/01/2008)

21. Hàn uyển (翰 苑): Nơi chứa sách trong cung vua (ở Trung Quốc) 22. H.T Thích Thanh Từ, Ba Mươi Hai Vị Tổ Ấn Hoa, Tu Viện Chân Không 1971, Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn Hành – PL. 2534-1990 (có thể đọc tại : http://www.tangthuphathoc.com/thien/33vitoanhoa-01.htm)

theo niemphat.vn