Ngày 5/7/1996, cả thế giới chấn động khi các nhà khoa học Scotland phá vỡ quy luật tự nhiên để tạo ra một sinh vật có vú bằng phương pháp nhân bản vô tính.Từ gien của một con cừu cái 6 tuổi, các nhà khoa học đã tạo ra cừu Dolly, một phiên bản sao chép chính xác của nguyên mẫu gốc.
Đây không phải là lần đầu tiên giới nghiên cứu thành công trong việc nhân bản vô tính.Thật ra, việc tạo ra các sinh vật từ mô phôi đã xuất hiện từ năm 1958 với loài ếch Xenopus laevis. Tuy nhiên, Dolly là sinh vật nhân bản đầu tiên được tạo ra từ một tế bào động vật trưởng thành, điều trước đó tưởng như là “nhiệm vụ bất khả thi” đối với công nghệ hiện đại.
Cừu Dolly và giáo sư Wilmut.
Dolly trải qua cả cuộc đời ở Viện Roslin, nơi nó được đặt dưới sự giám sát và theo dõi nghiêm ngặt. 10 tháng đầu đời, Dolly được cho sống chung với hai con cừu bình thường nhưng nó tỏ ra hung hăng giành hết thức ăn trong chuồng và sau đó được nuôi trong chuồng riêng. Dolly có ba lần sinh nở với một con cừu đực giống Welsh Mountain (tên là David) và có tổng cộng sáu đứa con: Lần đầu sinh một con mang tên Bonnie vào năm 1998, sau đó là sinh đôi năm 1999 và sinh ba vào năm 2000.
Cơn ác mộng về “nhân bản người”
Giáo sư Ian Wilmut của Viện Khoa học Roslin tại Edinburg cho biết mục tiêu của công trình nghiên cứu nhằm phát triển công nghệ mới phục vụ cho sản xuất sản phẩm chăm sóc sức khỏe. Nhưng thực tế lại không đơn giản như mong muốn của nhóm nghiên cứu. Ngay sau khi được công bố, cừu Dolly đã thổi bùng lên những dự đoán “không tưởng đến đáng sợ” về tương lai của nhân loại.
Arthur Caplan, một chuyên gia hàng đầu của Trung tâm Đạo đức Sinh học tại Đại học Pensylvania, cho rằng cừu Dolly “là một câu chuyện thực sự chấn động, một phiên bản đời thực của câu chuyện nhân bản nổi tiếng trong ‘Công viên Kỷ Jura'”. Các nhà khoa học như Caplan tin rằng thí nghiệm trên chứng tỏ họ có thể thực sự “hồi sinh” khủng long trong thời hiện đại mặc dù các nhà nghiên cứu lúc bấy giờ khẳng định họ chỉ có thể nhân bản từ tế bào sống.
Nhưng hơn cả khủng long, khía cạnh đáng sợ nhưng cũng kích thích trí tò mò nhất mà kỳ tích của cừu Dolly mang tới là khả năng về “sản xuất con người”. Theo Patrick Dixon, một chuyên gia về công nghệ gien hiện đại, “Hầu hết mọi công nghệ ứng dụng được trên động vật có vú có thể sử dụng được trên con người. Công nghệ mới cho chúng ta cơ hội để tạo ra bản sao của người sống và thậm chí hồi sinh người chết sử dụng vật liệu đông lạnh”.
Tại sao người ta coi nhân bản người là “trái cấm”? Nhân bản vô tính là một quá trình vô cùng phức tạp, một thách thức đầy cám dỗ đối với những bộ óc hàng đầu thế giới. Tuy nhiên, những thí nghiệm nhân bản vô tính có tỷ lệ rủi ro vô cùng lớn. Ở loài vật, chỉ khoảng 1% số cá thể nhân bản sống sót và thường có sức khỏe rất kém, bị ốm đau và chết sớm. Trong trường hợp của Dolly, từ 277 quả trứng thì chỉ có 29 phôi được tạo thành, trong đó chỉ có 3 con cừu được sinh ra và có duy nhất Dolly sống sót.
Nhiều con sinh ra với bất thường gien khiến việc cấy phôi vào tử cung trở nên khó khăn, dễ gây sẩy thai. Ngoài ra, quá trình cấy phôi vô tính có thể tạo ra nhau thai quá khổ, khiến máu khó lưu thông bình thường, bào thai khó phát triển. Việc để cho những tình huống này xảy ra với bào thai người là một điều đáng sợ, khó chấp nhận về mặt đạo đức. Hơn thế nữa, không ai có thể đảm bảo rằng người nhân bản vô tính sẽ không có khuyết tật lớn.
Trên quan điểm đạo đức, nhân bản vô tính biến tướng việc sinh sản của loài người thành một quá trình sản xuất sản phẩm; các bào thai bị đối xử như những vật liệu thô cho quá trình cung ứng vật liệu để phục vụ nghiên cứu y sinh học. Nhiều nhà khoa học lo ngại rằng sẽ có những trường hợp lạm dụng công nghệ này.