Top 9 # Ý Nghĩa Của Amen Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 5/2023 # Top Trend | Drosetourmanila.com

Ý Nghĩa Của Từ “Amen”

Chi tiết Đăng bởi : Ban Truyền Thông

Xin cho biết nghĩa tiếng Amen, Alleluia đọc trong thánh lễ?

Đáp:

tiếng Do thái (Hebrew: aman) nghĩa là làm cho mạnh sức ( strengthen) Khi dùng trong Kinh thánh và Phụng vụ, có nghĩa là “như vậy đó, mong được như vậy”(so be it). Sau khi người kia nói điều gì, người này kêu lên: như vậy đó.

Amen dùng kết lời cầu nguyện để tỏ lòng mong ước: mong được như vậy. Khi nhóm người đọc Amen sau lời nguyện có nghĩa họ đồng ý với tâm tình và cảm nghĩ diễn tả trong lời cầu nguyện. Khi linh mục trao Mình Thánh ta thưa Amen là ta tuyên xưng Mình Thánh chính là Chúa Giêsu. Amen giống như OK trong Anh văn.

Trong sách Khải huyền, thánh Gioan gọi Chúa Kitô là Đấng Amen: Kh 3,14 “Hãy viết cho thiên thần của Hội Thánh Laođikia, Đây là lời của Đấng Amen, là Chứng Nhân trung thành và chân thật, là Khởi Nguyên của mọi loài Thiên Chúa tạo dựng.

). Đây là cách nói đặc biệt bởi vì không thấy có nơi các bản văn khác trong cùng thời đại. Dường như lối nói này muốn bảo đảm cho chân lý của lời nói nhờ vào thẩm quyền của người nói. Lại nữa, sách Khải Huyền loan báo Chúa Giêsu là Đấng Amen: ” Các cộng đoàn kitô hữu tiên khởi, dù không nói tiếng Do Thái, vẫn kết thúc lời kinh bằng từ “Amen” trong tiếng Do Thái.

” Amen ” được dịch là ” Xin được như vậy ! ” (tiếng Pháp là ” ainsi soit-il! “), nhưng như thế cũng không chuyển tải hết được những ý nghĩa khác nhau của từ “amen” trong tiếng Do Thái. Trong nguyên ngữ, ” amen ” nói lên sự chắc chắn, chân lý và sự trung tín. Nói “amen”, có nghĩa là “Vâng, đúng vậy, chắc như thế!”. Ngôn sứ Isaia còn nói rằng Chúa là Thiên Chúa của “amen” (Is 65,16 ), một vị Thiên Chúa mà ta có thể tin tưởng, Đấng nói và giữ lời. Hãy viết cho thiên thần của Hội Thánh Laođikia: Đây là lời của Đấng Amen, là Chứng Nhân trung thành và chân thật, là Khởi Nguyên của mọi loài Thiên Chúa tạo dựng ” (Kh 3,14 Trong Kinh Thánh, người ta đáp tiếng “amen” để nói lên sự gắn bó của mình với một lời chúc lành, chúc dữ hay một công bố long trọng nào đó. Chính vì thế, từ này đã trở nên một lời thưa trong phụng vụ. Chẳng hạn, trong sách 1 Sử Biên Niên 16,35-36 chép rằng: ” Hãy nói: lạy Thiên Chúa Đấng cứu độ chúng con, xin thương quy tụ chúng con về, cứu chúng con từ giữa muôn dân nước, để chúng con cảm tạ Thánh Danh, và được hiên ngang tán dương Ngài. Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Israel, từ muôn thuở cho đến muôn đời! ” Và toàn dân hô lớn: “Amen! Halêluia! “, đây là cách thức để đám đông dân chúng đáp trả lại lời kinh Tạ Ơn, để lời kinh nguyện trở nên lời kinh của chính mình. Nhiều tiếng “amen” cũng được sử dụng trong các Thánh Vịnh. Sách Khải Huyền cũng dùng từ “amen” trong bối cảnh bài thánh ca phụng vụ để tăng sức nặng cho những điều đã được khẳng định.

Trong các Tin Mừng, tiếng “amen” được dùng theo cách khác. Thỉnh thoảng trong Tin Mừng Thánh Gioan người ta nhân đôi tiếng “amen”. ” Amen, amen, tôi bảo thật các anh …” (Ga 1,51 ). Ta hiểu điều này chỉ muốn nói rằng Ngài chính là chân lý. Vậy thì mỗi lần đáp lời thưa ” amen “, bạn hãy quyết chắc rằng mình hoàn toàn đồng ý với những gì được nói bởi vì thưa “amen” là bạn quả quyết rằng đó là sự thật và là điều chắc chắn.

Bản dịch CGKPV : ” Thiên Chúa chân thật” ; bản dịch Cha Nguyễn Thế Thuấn: ” Thiên Chúa danh hiệu Amen ”

Bản dịch CGKPV : ” Thật, tôi bảo các anh” ; bản dịch Cha Nguyễn Thế Thuấn: ” Quả thật, quả thật, ta bảo các ngươi ”

, Tiếng Dothái có nghĩa: “Chúc tụng Chúa” Thường dùng trong khi cầu nguyện hay thờ phượng trong đền thờ. Linh mục kêu: ‘hallelu’ (hãy ca tụng) và toàn dân kêu phần đầu của tên Chúa Yahweh. Và thế là có tiếng ‘hallelu’-Ya!”

http://gpquinhon.org/qn/news/than-hoc-kinh-thanh/Y-nghia-cua-tu-Amen-990/#.U1SYI1WSyNA

http://www.xuanha.net/Kh-Hoidesongdao/64nghia%20AmenAlleluia.html

Amen: Nghĩa Là Gì ?

CORPUS CHRISTI, TX – Amen có lẽ là một từ phổ biến trên môi người Ki-tô giáo. Đó là sự chuyển âm trực tiếp – không chuyển dịch – từ tiếng Hebrew אמן, amen, một từ tự chuyển dịch từ Thánh Kinh Hy Lạp: ἀμὴν, Amen.

Chúng ta thường có xu hướng xem từ này như một sự khép lại hay kết thúc, một dấu chấm, một dấu ấn kết thúc những bài kinh của chúng ta: “… nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen.” “… khi nay và trong giờ lâm tử. Amen.” “… và bây giờ và hằng có và đời đời chẳng cùng. Amen.”

Với ý nghĩa này, thì từ này có thể được dịch cùng với dòng: “Đó là thế,” hoặc “Hãy   là thế,” hoặc “điều đó được bền vững,” hoặc “điều đó được thiết lập lâu bền.”

Không chỉ những lời nguyện mới được kết thúc với “Amen” mà với cả những Tín điều Công Giáo.

Cùng với những lời tương tự, từ Amen là từ cuối cùng của Kinh Thánh, nó như một nút thắt lại với nhau những dòng cuối cùng của Sách Khải Huyền: “ Nguyện xin ân sủng của Chúa Giê-su tràn đầy trên dân Chúa.” (Khải Huyền 22: 21)

Chúng ta có thể nhận được ấn tượng, từ cách sử dụng của nó vào cuối những lời cầu nguyện, tín điều, và kinh thánh, mà Amen là từ cố định, ở trạng thái tĩnh, nó hoạt động như một kệ sách, một thay đổi cuối cùng, một nút thắt. Nhưng điều này có thể dẫn đến một sai lầm lớn. Mặc dù tính sử dụng phổ biến của nó, do vậy, đó là một từ mà giá trị khai thác trong hàng loạt đối với ba ngôn ngữ tế lễ này, Tres Linguae Sacrae.

Từ Amen không ở trạng thái tĩnh. Trong thực tế, nó là một từ sinh động, vì nó là từ hai chiều, lưỡng diện. Đó là một từ biểu diễn bằng hai vectơ. Thậm chí người ta có thể cho rằng, ở Kinh Truyền Tin, nó trở thành một từ “hiện thân”. Đó là lý do tại sao Chân Phước Gioan Phaolo II, trong Tông Thư “Ecclesia de Eucharistia” của ngài, lại được gắn liền với từ “Amen” với “Fiat” của Mẹ Maria: Đây là một tương tự sâu sắc giữa từ Fiat mà Đức Maria nói trong lời phúc đáp với Thiên Sứ, và từ Amen mà mỗi tín hữu thốt lên khi nhận Mình Thánh Chúa. Đó là từ mà,  khi thốt ra trong đức tin, là một từ được nói bởi hai người – Thiên Chúa và con người – và cùng một lúc.

Bản chất kép của từ Amen được thể hiện, ví dụ, khi Amen được dùng trong việc liên hệ với Kinh Tin Kính. Ở đó, nó mang ý nghĩa nhiều với việc liên kết câu với “Tôi tin!” “Thật vậy, ‘Amen’ cuối cùng của Kinh Tin Kính lặp lại và xác tín lời đầu tiên của nó” ‘Tôi tin,’” nói lên Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo. “Để tin là nói ‘Amen’ đối với những lời của Thiên Chúa, những lời hứa, và những điều răn của Thiên Chúa, để hoàn toàn phó thác bản thân cho Người, Người là ‘Amen’ của tình yêu vô biên và trung thành tuyệt đối.

Giáo lý tiếp tục: “Đời sống hàng ngày của Ki-tô hữu rồi sẽ là ‘Amen’ đối với điều ‘Tôi tin’ về lời tuyên bố đức tin trong phép rửa của chúng ta.”

Khi Giáo Lý giải thích, Amen “xuất xứ cùng nguồn gốc như từ ‘Tin tưởng,’” đó là nói theo từ Hebrew אָמַן, aman. Giáo Lý giải thích tiếp: “Điều này thể hiện sự vững chắc, tin cậy, trung thành, và chúng ta có thể hiểu tại sao ‘Amen’ lại thể hiện cả hai lòng trung thành của Thiên Chúa hướng về chúng ta và chúng ta tin tường nơi Người.

Do đó, nó là từ hai chiều, một từ trung gian giữa Thiên Chúa và con người, một từ “Tôi – Người”, một từ mà tự của nó, tự trong nó là một cuộc đối thoại đồng thời giữa Thiên Chúa và con người: “Tôi” ở đây muốn nói “nói với” hoặc “tin vào”, “Người” ở đấy muốn nói “Người” nói với hoặc tự tỏ mình với, “Tôi,” và ở ngay và cùng lúc. Nó diễn tả ở ngay và cùng lúc với lòng trung thành của Thiên Chúa đối với chúng ta và chúng ta tin tưởng vào lòng trung thành đó.

Giáo Lý La Mã còn được gọi là Sách Giáo lý của Council of Trent (Concilium Tridentinum) nhận xét rằng điều quan trọng là chúng ta phải biết “tại sao chúng ta lại khép lời nguyện của chúng ta với từ này, và nghĩa của nó ngụ ý gì, đối sự sùng kính trong lời kết của lời nguyện của chúng ta không kém phần quan trọng với sự chú ý trong lúc khời đầu.”

Giáo Lý La Mã gợi ý rằng Amen chúng ta dùng vào lúc kết thúc lời nguyện của chúng ta, mặc dù chúng ta chắc chắn thốt ra lời đó, không phải là lời cầu nguyện của chúng ta quá nhiều hoặc sự khép lại của nó, mà là sự phúc đáp của Thiên Chúa. Amen có thể được dịch là “biết rằng lời cầu nguyện của mình được lắng nghe,” điều mà Giáo Lý nói, “có sức mạnh của lời phúc đáp, như thể Thiên Chúa đáp lại lời nguyện xin của chúng ta và miễn thứ tất cả, sau khi nghe lời nguyện cầu thành tâm thiện ý của chúng ta.”

Đây là biểu tượng đáng kể trong nghi thức Hiệp Thông giữa Hình Thức Đặc Trưng của Thánh Lễ, nơi mà người chủ tế – người mà tượng trưng cho mọi người, đọc thuộc lòng toàn bộ Kinh Lạy Cha thì không Amen. Linh mục – người thay thế nhân vật Ki-tô, trong cá nhân của Đức Ki-tô – đáp trả lời thuật của vị chủ tế với từ Amen.

Nắm bắt được cái nhìn sâu sắc tự trái tim, khi ta nói Amen vào cuối lời cầu nguyện, đặc biệt là lời nguyện của Chúa Phép Thánh Thể Amen cực trọng, chúng ta có thể nói rằng nó còn nhiều hơn dọc theo những dòng mà Thiên chúa nó với chúng ta, và chẳng nhiều cho lắm như chúng ta nói với Thiên Chúa.

Khía cạnh trung gian của từ Amen là thể hiện một cách linh động đặc biệt trong Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo dựạ trên Sách Khải Huyền của Thánh Gio-an nơi mà Chúa Giê-su được ám chỉ như là “Đấng Amen.” (Khải Huyền 3: 14)

“Chính Chúa Giê –su Ki-tô là ‘Amen’. Người là ‘Đấng Amen’ có quyền lực và thấu đáo của tình yêu của Đức Chúa Cha dành cho chúng ta. Người đảm nhiệm và hoàn thành ‘Amen’ của chúng ta với Đức Chúa Cha.”

Một lần nữa, chúng ta có một đề tài thuộc hai cách: “Amen” là Đức Ki-tô, với cả hai bản tính Chúa Trời và bản tính loài người, Đấng Trung gian giữa Thiên Chúa và con người. Chúng ta nói Amen, nhưng với Đức Ki-tô Amen hoàn thành và hoàn hảo và dâng lên Đức Chúa Cha. Nó thuôc tính cách mà Thánh Phao-lô dùng Amen trong lá thư thứ hai của ông gửi tín hữu Corinto: Vì mọi lời hứa của Thiên Chúa đều tìm thấy ‘Có’ ở người (Chúa Giê-su). Đó là lý do tại sao chúng hô lên ‘Amen’ để tôn vinh Thiên Chúa.” (2 Cor. 1: 20)

Người ta có thể nói rằng ý nghĩa này của Amen trở nên thực tiễn và chân thực trong sự đón nhận xứng đáng Mình và Máu của Đức Ki-tô trong sự hiệp thông, những gì có thể được gọi là Amen Thánh Thể cá nhân chúng ta. Linh mục hoặc thừa tác viên ban phát cho chúng ta “Mình Thánh Chúa Ki-tô” – đó là Thân Thể Chúa Giê-su   Amen – hoặc “Máu Thánh Đức Ki-tô” – Máu của Chúa Giê-su Amen – và câu trả lời của chúng ta là, “Amen!”

Chúa Giê-su, Tân Lang Thánh Thể, từ trời xuống thế thể lý và tinh thần như một liên kết hôn nhân với chúng ta, những tân nương Thánh Thể. Đây là ý nghĩa của sự hiệp thông – một kết quả phục hồi của mối bất đồng, cùng nhau mang lại những gì ban đầu là nhất thể mà đã trở thành phân thể. “Vì Người trở thành hôn phu của ta và là Đấng Tạo Thành; tên người là Chúa các đạo binh, Đấng Cứu Chuộc của ta là Đấng Thánh của Israel, được gọi là Thiên Chúa của cả thế gian. Chúa gọi ta trở lại, giống như người vợ đã bỏ ra đi và tâm hồn đau xót, một người vợ kết hôn lúc xuân thì và sau đó bỏ đi.” (Isaiah 54: 5-6)

“Thật vậy,” ĐTC Emeritus Benedict XVI đã nhận xét trong một bài thuyết giảng tại Thánh Lễ Tiệc Ly, “Phép Thánh Thể còn hơn so với một bữa ăn, đó là một tiệc cưới.” “Chắc chắn rằng , thông qua món quà tình yêu của Người,” Điều đó được tìm thấy trong Chúa Giê-su chính người ban cho chúng ta trong Bí Tích Thánh Thể, ngài nói tiếp, “Người đã vượt qua mọi khoảng cách và tạo cho chúng ta thực sự là ‘những cộng sự’ của Người, những bí ẩn của tình yêu hôn nhân được thực hiện.”

Thánh Thể cá nhân Amen của tôi là một từ lưỡng nghĩa tuyệt hảo, một từ tạo thành những cộng sự viên, thậm chí một cuộc hôn nhân, Thiên Chúa và tôi. “Đây là một nhiệm mầu cao cả, một bí tích trọng đại, mà tôi muốn nói về Đức Ki-tô và Giáo Hội.” (Eph. 5: 32) Tại thời điểm của sự viên mãn, của sự hiệp thông này, Chúa Giê-su và tôi giống như Tobias và những người xinh đẹp, những người mà cùng cầu nguyện trước những lễ cưới của mình và cùng kết thúc lời nguyện với “Amen, amen.” (Tobias 8: 8) Chúa Giê-su bằng việc tự Người ban cho tôi, là Tobias. Tôi, trong việc đón nhận Chúa, người đã tự hiến cho tôi, là sarah. Tôi có thể đoan chắc, rằng trong Amen Thánh Thể của tôi, Chúa Giê-su và tôi cùng nói “Amen, amen.”

Chúa Giê-su, Đấng Amen chính người ban cho tôi, chúng ta cùng nhau nói Amen, Amen được Chúa Giê-su trả lời còn nhiều hơn lời nguyện cầu của tôi, và tôi trở nên – bằng ân sủng – Amen. Amen Thánh Thể này là tối hậu trong sự thiêng liêng và thuyết động lực thuộc con người và Thiên Chúa cùng sự hiệp nhất loài người. Không lấy gì ngạc nhiên mà Chân Phước Gioan Phaolo II đã thấy trong Amen Thánh Thể một sự tương đồng với Fiat của Mẹ Maria. “Điều đó có thể làm cho tôi theo như lời của Người.” (Luca 1: 30-35)

Jos. Tú Nạc, NMS

Ý Nghĩa Của Từ “Amen” Và “Alleluia” Trong Phụng Vụ Và Kinh Thánh Công Giáo

1. Amen: Là từ ngữ Do thái được sử dụng trong Phụng vụ và Kinh thánh của Giáo hội.

Trong Phụng vụ: Tiếng Amen đươc dùng để kết thúc một lời cầu xin dài hay ngắn với ước mong được Chúa chấp nhận lời cầu xin đó và ban cho ta như lòng mong muốn.

Ngoài ước muốn được nhậm lời cầu nói trên, Amen còn có nghĩa là “đúng vậy, chắc chắn như vậy” – Ý nghĩa này được dùng khi linh mục, phó tế hay thừa tác viên thánh thể giơ cao Mình Thánh  hay chén Máu Thánh Chúa lên và nói “Mình Thánh Chúa Kitô” hoặc “Máu Thánh Chúa Kitô” người rước Lễ  thưa Amen, có nghĩa là  “đúng như vậy, đây là Mình, hay Máu Thánh Chúa Kitô”.

Vậy trước khi rước Mình và Máu Thánh Chúa, ta phải thưa Amen với ý nghĩa này để tuyên xưng niềm tin có Chúa Kitô thực sự hiện diện trong hình Bánh và Rượu nho. 

Trong Kinh Thánh: Trong Gioan 3,3  Chúa Giêsu nói : “Thật (Amen) Tôi bảo thật (Amen) ông không ai có thể thấy Nước Thiên Chúa nếu không được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên”. Amen trong câu này có nghĩa là “Sự thật, đúng như vậy”.

Trong Sách Khải Huyền, chúng ta đọc được câu sau đây: “Hãy viết cho thiên thần của Hội Thánh Lao-đi-kia: đây là lời của Đấng Amen, là Chứng Nhân trung thành và chân thật, là Khởi Nguyên của mọi loài Thiên Chúa tạo dựng”. (Kh 3,14). Câu này cho thấy Chúa Kitô chính là Đấng Amen, là Lời Thật của Thiên Chúa phán ra và nhờ LỜI ấy Thiên Chúa tạo dựng mọi loài, mọi vật.

Sách Giáo Lý Công Giáo, câu 1065, cũng viết: “Chúa Giêsu Kitô chính là Đấng Amen. Người là Amen của tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta. Người cũng thâu tóm và hoàn tất Amen của chúng ta dâng lên Chúa Cha…”.

2. Alleluia: Cũng là từ ngữ Do Thái lấy từ Kinh Thánh Cựu Ước, phiên âm nguyên ngữ ra các tiếng Tây phương (Anh, Pháp, Ý, Tây Ban Nha…) là Hallelujia, nhưng vì trong những ngôn ngữ này, người ta không đọc được âm H nên chỉ quen đọc là Alleluia như chúng ta vẫn nghe từ xưa đến nay.

Từ ngữ này có nghĩa là “Hãy chúc tụng Thiên Chúa” (Praise to God). Trong phụng vụ của Giáo Hội, tiếng Alleluia được dùng để diễn tả niềm vui hoan hỉ (jubilation) và lòng cảm tạ (thanksgiving) dâng lên Thiên Chúa. Riêng trong Sách Khải Huyền thì Alleluia được dùng để chỉ  tiếng reo  mừng  của các thiên thần: “Sau đó tôi nghe như có tiếng hô lớn của đoàn người đông đảo ở trên trời vang lên: Halleluia! Thiên Chúa ta thờ là Đấng cứu độ, Đấng vinh hiển uy quyền”. (Kh 19:1)

Ý Nghĩa Của Màu Tím

Ý nghĩa của màu tím

Nếu màu vàng được xem như màu phản bội, thì màu tím lại được coi là biểu tượng của lòng chung thủy. Nó là sự pha trộn, sự kết hợp hài hòa giữa mạnh mẽ (màu đỏ) và nhẹ nhàng (màu xanh dương), giữa lớn lao và bé nhỏ.

Có thể nói đây là một màu khá “dễ dàng”. Nó có thể phù hợp với mọi người, mọi lúc mọi nơi. Không làm người ta quá mệt mỏi, cũng không mang lại cảm giác quá nhàm chán. Do đó trong cuộc sống rất nhiều người thích màu tím. Tuy nhiên, do tính chất của màu tím là một màu kết hợp, cho nên những người thích màu tím thường là người lãng mạn, mơ mộng, có năng khiếu về âm nhạc hay hội họa, không quá nổi bật, quyết tâm thường không lớn, …

Màu tím rất hiếm trong tự nhiên, chủ yếu là màu nhân tạo. Màu tím nhẹ là lựa chọn trong các thiết kế dành cho phái nữ.

Ví dụ 1: Trong hình bên, các bạn thấy màu tím pha với màu trắng tạo ra màu tím nhạt, thì màu tím nhạt đó biểu hiện cho sự lãng mạn, nhưng lãng mạn ở đây là lãng mạn vui. Nếu màu tím pha với màu trắng, và màu xanh dương thì nó cũng tạo ra màu tím nhạt, nhưng màu tím nhạt đó lại biểu hiện cho lãng mạn buồn. Rất khác biệt đó, nên cần chú ý rất kĩ.

Ví dụ 2: Khi màu tím pha với màu trắng, và màu xanh dương tạo ra màu tím nhạt, thì màu tím nhạt đó còn mang tâm trạng nhớ nhung, luyến tiếc. Nhưng khi lượng màu xanh dương nhiều hơn màu trắng sẽ tạo ra một màu tím sẫm như mực, màu này chính là màu của lòng thủy chung son sắc, nhưng lòng thủy chung này là một lòng thủy chung buồn. Nghĩa là trong lòng vừa nhớ, vừa thương, vừa chung tình nhưng hình như tình yêu đó chưa được đáp trả lại một cách trọn vẹn. Việc phân tích chính xác màu sắc là một công việc vô cùng khó khăn.

Ví dụ 3: Trong một tình huống nào đó, màu tím tạo ra mang sắc thái tím tối, thì màu tím ấy lại trở thành màu tím của sự ảm đạm, thất vọng, thương tiếc, đau buồn. Hình hoa lan bên cạnh biểu hiện cho điều đó. Nhiều bạn không biết nên đã dùng những cành lan này để tặng cho người yêu. Các bạn nên nhớ rằng, màu tím sáng mới là biểu hiện của lòng chung thủy, còn màu tím tối thì lại mang một ý nghĩa rất tiêu cực.

Ví dụ 4: Hình bên là một màu tím chung thủy pha chút lãng mạn.

Ví dụ 5: Hình bên là một màu tím chung thủy và rất lãng mạn.

Ví dụ 6: Hình bên cũng là một màu tím chung thủy. Tím càng sáng sẫm chung thủy càng nhiều.

Ví dụ 7: Hình bên cũng là một màu tím chung thủy.

Ví dụ 8: Hình bên cũng là một màu tím chung thủy.

Ví dụ 9: Hình bên cũng là một màu tím chung thủy. Tím càng sáng sẫm chung thủy càng nhiều.

Ví dụ 10: Hình bên cũng là một màu tím chung thủy.

Ví dụ 11: Hình bên là một màu tím chung thủy và rất lãng mạn.

Ví dụ 12: Khi màu tím trở nên sẫm và bóng, thì đó là màu của sự quí phái. Hình bên là một màu tím chung thủy, lãng mạn và quí phái.

Khi màu tím pha chút màu đỏ thì nó biểu hiện một tình yêu vừa chung thủy vừa nồng nàn. Sắc màu đỏ càng nhiều thì tình yêu càng thể hiện mạnh mẽ.

Ví dụ 13: Hình bên thể hiện một tình yêu lãng mạn, hơi nồng nàn.

Ví dụ 14: Hình bên thể hiện một tình yêu chung thủy, nồng nàn.

Ví dụ 15: Hình bên thể hiện một tình yêu nồng nàn.

Chat Master Club

07/02/2010

Share this:

Twitter

Facebook

Like this:

Số lượt thích

Đang tải…