Cập nhật thông tin chi tiết về Tóm Tắt Ý Nghĩa Lịch Sử Của Cách Mạng Tháng 10 Nga mới nhất trên website Drosetourmanila.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Cách mạng này đã mở ra một bước ngoặt trong lịch sử loài người, đưa thế giới tư bản chủ nghĩa sang thế giới xã hội chủ nghĩa, mở ra một thời đại mới – thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
Cuộc Cách mạng đã đánh đổ chủ nghĩa đế quốc ở ngay chính quốc, đồng thời đánh vào hậu phương của nó là các nước thuộc địa của Nga hoàng; cổ vũ mạnh mẽ các phong trào cách mạng giải phóng dân tộc của những nước thuộc địa ở các nước châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latin. Đây là cuộc Cách mạng có ý nghĩa lịch sử và tính chất quốc tế sâu rộng mà không một cuộc cách mạng nào trong thời đại ngày nay lại không chịu ảnh hưởng.
Cách mạng Tháng Mười Nga có ảnh hưởng trực tiếp và nhiều mặt đến việc ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, đến hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược cũng như việc giành độc lập, tự do, thống nhất đất nước, đi lên chủ nghĩa xã hội của nhân dân Việt Nam.
Đặc biệt là Nguyễn Ái Quốc, Người đã bị thu hút bởi sự kiện lịch sử gây chấn động thế giới này khi ở Pháp. Chính từ trong bản luận cương của V.I. Lênin “Về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường cứu nước, giải phóng cho dân tộc Việt Nam. Điều này được thể hiện rõ trong tác phẩm “Đường Kách mệnh” năm 1927 của Người. Trong tác phẩm này, Người khẳng định: “Chỉ có đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười – con đường duy nhất đúng đắn – cách mạng Việt Nam mới giành được độc lập, tự do thực sự”.
Đánh giá cuộc Cách mạng Tháng 10 Nga, Người cho rằng: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có một cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”.
Đối với những người yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX, cuộc cách mạng Tháng Mười và chủ nghĩa xã hội tựa như người đi đường đang khát mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn. Lý tưởng của Cách mạng Tháng Mười, chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác – Lênin và những bài học kinh nghiệm của cuộc cách mạng vĩ đại này về nghệ thuật đấu tranh giành và giữ chính quyền đã được Nguyễn Ái Quốc vận dụng và phát triển sáng tạo vào điều kiện cụ thể của nước ta, đưa cách mạng nước ta vượt qua khó khăn, liên tục giành được những thắng lợi to lớn.
Tóm Tắt Chuyên Đề 3 Lịch Sử 8
07 Tháng 10, 2019
Giai đoạn cuối thế kỉ XIX, tình hình Việt Nam vô cùng rối ren. Đất nước mất độc lập nên yêu cầu số một của người dân Việt Nam lúc bấy giờ là đánh đuổi được thực dân Pháp, giành độc lập tự do. Mọi phong trào đấu tranh đều nhằm để giải quyết yêu cầu này của người dân.
Trong giai đoạn này đã xuất hiện phong trào Cần Vương – một phong trào do Tôn Thất Thuyết và vua Hàm Nghi đứng lên. Có thể nói ý nghĩa phong trào cần vương là vô cùng to lớn, nó đã tác động sâu sắc đến lịch sử Việt Nam giai đoạn cuối thế kỉ XIX. Tuy rằng thất bại song nó cũng đã mang lại nhiều bài học kinh nghiệm sâu sắc vô cùng quý báu cho những cuộc khởi nghĩa về sau.
1, Khái quát chung về bối cảnh lịch sử và ý nghĩa phong trào cần vương
Từ những hành động quyết liệt của phái chủ chiến khiến Pháp lo sợ, Pháp đã quyết định tìm mọi cách tiêu diệt phong trào. Đây là nguyên nhân phong trào cần vương ra đời bởi sau đó, để tránh bị động, đêm mùng 4 rạng sáng mùng 5 tháng 7 năm 1885, Tôn Thất Thuyết chỉ huy binh lính tấn công Pháp ở kinh thành Huế song gặp phải thất bại. Tôn Thất Thuyết phải rút lực lượng lên Tân Sở (Quảng Trị). Ngày 13 tháng 7 năm 1885, Tôn Thất Thuyết lấy danh vua Hàm Nghi ra “Chiếu Cần Vương”, kêu gọi văn thân, sĩ phu, nhân dân cả nước giúp vua cứu nước
2, Phong trào đấu tranh và ý nghĩa phong trào cần vương
Giai đoạn từ năm 1885 đến năm 1888, phong trào Cần Vương diễn ra ở hầu hết khắp các địa phương trên cả nước, trải dài từ Khánh Hòa đến Hà Giang. Hai người lãnh đạo chính của phong trào Cần Vương lúc bấy giờ là Tôn Thất Thuyết và vua Hàm Nghi. Phong trào Cần Vương trong giai đoạn này gặp nhiều khó khăn. Tôn Thất Thuyết đã sang Trung Quốc cầu viện và để vua Hàm Nghi lại song không đạt được kết quả khả quan. Năm 1888, Trương Quang Ngọc chỉ điểm cho Pháp bắt vua Hàm Nghi, Pháp không dụ dỗ được nên đã đày vua Hàm Nghi sang châu Phi. Đây là diễn biến phong trào cần vương trong giai đoạn đầu tiên.
Giai đoạn thứ hai bắt đầu từ năm 1888 đến năm 1896: Tuy không còn Tôn Thất Thuyết và vua Hàm Nghi lãnh đạo nhưng phong trào vẫn diễn ra sôi nổi.. Các nghĩa quân thường dựa vào địa thế hiểm trở để xây dựng căn cứ chiến đấu, vẫn mang nặng tư tưởng xây dựng căn cứ, chờ địch, cố thủ, thiếu sự linh hoạt. Tuy vậy, điểm mạnh là các cuộc đấu tranh quy tụ thành những cuộc khởi nghĩa to lớn, gây cho Pháp nhiều khó khăn, tổn thất. Đây là một trong những ý nghĩa phong trào cần vương mang lại cho cuộc đấu tranh trước Pháp của dân tộc ta.
Một số cuộc khởi nghĩa tiêu biểu trong phong trào Cần Vương giai đoạn này gồm có khởi nghĩa Ba Đình do Phạm Bành và Đinh Công Tráng làm lãnh đạo chủ chốt. Địa bàn hoạt động là huyện Nga Sơn (Thanh Hóa), bắt đầu vào năm 1866 và kết thúc năm 1887. Khởi nghĩa Bãi Sậy bắt đầu vào năm 1883 và kết thúc năm 1892 do Nguyễn Thiện Thuật và Đốc Tít lãnh đạo. Địa bàn hoạt động của khởi nghĩa Bãi Sậy là Hưng Yên. Cả 2 cuộc kháng chiến này đều có chung một kết cục là thất bại.
3, Nguyên nhân thất bại và ý nghĩa phong trào cần vương
Về nguyên nhân khách quan của thất bại, đó là do quân đội thực dân Pháp mạnh hơn quân đội ta rất nhiều lần về mọi phương diện như các phương thức sản xuất, các trang thiết bị và vũ khí hiện đại cũng như thực dân Pháp có nhiều kinh nghiệm trong chiến tranh xâm lược
Tuy vậy cũng phải kể đến một số nguyên nhân chủ quan như các cuộc khởi nghĩa trong phong trào Cần Vương diễn ra lẻ tẻ, thiếu gắn kết. Nhờ đó đã tạo cơ hội cho Pháp áp dụng chiến thuật “bẻ từng chiếc đũa” để đàn áp, tiêu diệt thành công. Cuối cùng, nguyên nhân cơ bản nhất dẫn đến thất bại của phong trào Cần Vương đó chính là sự hạn chế về đường lối và phương pháp đấu tranh do chịu sự chi phối của thời đại.
Tóm lại, ý nghĩa của phong trào cần vương là nó đã tiếp nối truyền thống yêu nước, ý chí bất khuất, kiên cường của nhân dân Việt Nam. Phong trào Cần Vương cũng giúp tiêu hao sinh lực địch, góp phần làm chậm quá trình bình định Việt nam cả thực dân Pháp. Phong trào cần vương cũng để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu cho các phong trào yêu nước sau đó. Cụ thể, những bài học kinh nghiệm đó bao gồm
Xây dựng căn cứ địa kháng chiến
Tổ chức và xây dựng lực lượng chiến đấu
Phối hợp nhiều hình thức, phương pháp đấu tranh
Đường lối lãnh đạo đúng đắn, thống nhất
4, Hệ thống câu hỏi ôn luyện về ý nghĩa phong trào cần vương
Câu 1: Tôn Thất Thuyết thay mặt vua Hàm Nghi ra chiếu cần Vương khi đang ở
Câu 3: Nhân vật lịch sử nào được đề cập đến trong câu đố dân gian sau
“Vua nào chính trực anh hào
Đứng ra lãnh đạo phong trào Cần Vương?”
Câu 4: Nhân vật lịch sử nào được đề cập đến trong câu đố dân gian sau
“Đố ai ngang dọc vẫy vùng
Vụ Quang khởi nghĩa, hợp cùng văn thân
Cần Vương nổi tiếng xa gần
Tinh thần kháng địch bội phần lên cao”
Ý Nghĩa Lịch Sử Và Bài Học Kinh Nghiệm Trong Thắng Lợi Vĩ Đại Của Cách Mạng Tháng Tám Và Quốc Khánh 2
Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn cuối. Hồng quân Xô Viết liên tiếp giành thắng lợi quyết định trên chiến trường châu Âu, giải phóng một loạt nước và tiến thẳng vào sào huyệt phát xít Đức tại Béc-lin. Ngày 9-5-1945, phát xít Đức đầu hàng vô điều kiện, chiến tranh kết thúc ở châu Âu. Ngày 8-8-1945, Hồng quân Liên Xô tiến công như vũ bão vào quân đội Nhật. Ngày 14-8-1945, phát xít Nhật đầu hàng vô điều kiện, chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc. Theo thỏa thuận của các nước Đồng minh, sau khi phát xít Nhật đầu hàng, quân đội Anh và Tưởng sẽ vào Đông Dương để giải giáp quân đội Nhật. Trong khi đó, thực dân Pháp lăm le dựa vào Đồng minh hòng khôi phục địa vị thống trị của mình; đế quốc Mỹ đứng sau các thế lực này cũng sẵn sàng can thiệp vào Đông Dương; những phần tử phản động, ngoan cố trong chính quyền tay sai Nhật đang âm mưu thay thầy đổi chủ, chống lại cách mạng.
Ở trong nước, trải qua các cuộc diễn tập, đến năm 1945, phong trào cách mạng dâng cao. Ngày 9-3-1945, phát xít Nhật làm cuộc đảo chính hất cẳng Pháp. Ngay trong đêm đó, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương mở rộng quyết định phát động một cao trào cách mạng làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa, thay đổi các hình thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức và đấu tranh cho thích hợp. Tháng 3-1945, Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Tháng 4-1945, Trung ương triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ, quyết định nhiều vấn đề quan trọng, thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam giải phóng quân. Ngày 16-4-1945, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị tổ chức các Ủy ban Dân tộc giải phóng các cấp và chuẩn bị thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam, tức Chính phủ lâm thời cách mạng Việt Nam.
Từ tháng 4-1945 trở đi, cao trào kháng Nhật cứu nước diễn ra mạnh mẽ, phong phú về nội dung và hình thức. Đầu tháng 5-1945, Bác Hồ từ Cao Bằng về Tuyên Quang, chọn Tân Trào làm căn cứ chỉ đạo cách mạng cả nước và chuẩn bị Đại hội quốc dân. Ngày 4-6-1945, Khu giải phóng Việt Bắc được thành lập, đặt dưới sự lãnh đạo của Ủy ban chỉ huy lâm thời, trở thành căn cứ địa của cả nước. Tháng 8-1945, Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) khẳng định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành độc lập đã tới” và quyết định phát động toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và tay sai trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương; đề ra ba nguyên tắc bảo đảm tổng khởi nghĩa thắng lợi, đó là: Tập trung, thống nhất, kịp thời. 23 giờ ngày 13-8-1945, Ủy ban Khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1 hiệu triệu toàn dân tổng khởi nghĩa. Ngày 16-8-1945, Đại hội Quốc dân họp tại Tân trào thông qua “10 chính sách lớn của Việt Minh”; thông qua “Lệnh tổng khởi nghĩa”; quy định quốc kỳ, quốc ca; thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng Trung ương, tức Chính phủ Lâm thời do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi nhân dân cả nước tổng khởi nghĩa, trong đó chỉ rõ: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đồng loạt vùng dậy, tiến hành tổng khởi nghĩa, giành chính quyền. Từ ngày 14 đến ngày 18-8, cuộc tổng khởi nghĩa nổ ra giành được thắng lợi ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, đại bộ phận miền Trung, một phần miền Nam và ở các thị xã: Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Hội An, Quảng Nam… Ngày 19-8, khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở Hà Nội. Ngày 23-8, khởi nghĩa thắng lợi ở Huế và ở Bắc Cạn, Hòa Bình, Hải Phòng, Hà Đông, Quảng Bình, Quảng Trị, Bình Định, Gia Lai, Bạc Liêu… Ngày 25-8, khởi nghĩa thắng lợi ở Sài Gòn – Gia Định, Kon Tum, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Trà Vinh, Biên Hòa, Tây Ninh, Bến Tre… Ở Côn Đảo, Đảng bộ nhà tù Côn Đảo đã lãnh đạo các chiến sĩ cách mạng bị giam cầm nổi dậy giành chính quyền.
Chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8-1945, cuộc tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi hoàn toàn, chính quyền trong cả nước về tay nhân dân.
Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội) lịnh sử, trước cuộc mít tinh của gần một triệu đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Từ đó, ngày 2-9 là Ngày Quốc khánh của nước ta.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công mau lẹ do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân quan trọng, có ý nghĩa quyết định là sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt, khéo léo của Đảng; là sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện cụ thể của nước ta một cách đúng đắn, độc lập, tự chủ và sáng tạo. Đảng có phương pháp, chiến lược, chiến thuật cách mạng phù hợp, linh hoạt; nhận thức được thời cơ, chủ động đón thời cơ và kiên quyết chớp thời cơ, tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
Cách mạng Tháng Tám thành công là do tinh thần yêu nước, đoàn kết, ý chí quật cường của các tầng lớp nhân dân ta, không chịu sống mãi kiếp nô lệ của người dân mất nước; một lòng đi theo Đảng và được Đảng lãnh đạo qua các cuộc tổng diễn tập, đã quyết vùng lên giành độc lập cho dân tộc. Trải qua 15 năm đấu tranh cực kỳ gian khổ và anh dũng dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã có biết bao đồng bào, chiến sĩ đã không hề tiếc máu xương, hy sinh oanh liệt vì mục tiêu độc lập dân tộc.
Cách mạng Tháng Tám được tiến hành trong bối cảnh quốc tế có những thuận lợi nhất định. Chủ nghĩa phát xít Đức, Ý, Nhật đã bị đánh bại, phong trào đấu tranh giải phóng của các dân tộc bị áp bức và của các lực lượng tiến bộ trên thế giới phát triển mạnh.
Cách mạng tháng Tám thành công để lại nhiều ý nghĩa lịch sử, cụ thể:
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của nhân dân ta từ khi có Đảng lãnh đạo, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Chính quyền về tay nhân dân, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời – Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á; chấm dứt chế độ quân chủ phong kiến ở Việt Nam; kết thúc hơn 80 năm nhân dân ta dưới ách đô hộ của thực dân, phát xít. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người dân một nước độc lập, làm chủ vận mệnh của mình. Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành một nước độc lập, tự do và dân chủ. Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành một Đảng cầm quyền. Từ đây, đất nước, xã hội, dân tộc và con người Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin được vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam; là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng của Đảng ta gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, gắn sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; là sự thể nghiệm thành công đầu tiên chủ nghĩa Mác-Lênin tại một nước thuộc địa ở châu Á. Đây còn là quá trình phát triển tất yếu của lịch sử dân tộc trải qua mấy nghìn năm phấn đấu, đỉnh cao của ý chí quật cường, sức mạnh của cộng đồng, tầm cao trí tuệ của dân tộc hòa quyện với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với xu thế của thời đại vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám cổ vũ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước bị chủ nghĩa đế quốc thực dân áp bức, thống trị. Nó khẳng định rằng, trong điều kiện trào lưu của cách mạng vô sản, cuộc cách mạng do một đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo không chỉ có thể thành công ở một nước tư bản kém phát triển, nơi mắt xích yếu nhất của chủ nghĩa đế quốc mà còn có thể thành công ở ngay một nước thuộc địa nửa phong kiến lạc hậu để đưa cả dân tộc đó đi lên theo con đường của chủ nghĩa xã hội.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu, nổi bật là:
Bài học thứ nhất là có một đảng tiên phong thật sự cách mạng, tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, được tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng đã nắm vững hoàn cảnh cụ thể của mỗi giai đoạn lịch sử, đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, có phương pháp và hình thức đấu tranh phù hợp; biết nắm bắt thời cơ, xây dựng lực lượng và tổ chức, sử dụng lực lượng; phát huy được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để dẫn dắt quần chúng đứng lên giành và giữ chính quyền.
Bài học thứ hai là vấn đề giành và giữ chính quyền. Đảng ta đã biết chăm lo xây dựng lực lượng cách mạng, làm cho lực lượng cách mạng đủ mạnh, thu hút được đông đảo quần chúng tham gia, từ đó làm thay đổi so sánh lực lượng giữa ta và địch, tạo ra thời cơ cách mạng để đưa cuộc cách mạng đến thành công. Để giữ vững chính quyền, Đảng và Nhà nước ta đã dựa chắc vào nhân dân, tạo nên sức mạnh vật chất và tinh thần để đấu tranh thắng lợi với thù trong giặc ngoài. Đảng ta biết kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và sử dụng bạo lực cách mạng thích hợp và đúng lúc để đập tan bộ máy nhà nước cũ, lập ra nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Bài học thứ ba là vấn đề nắm bắt được thời cơ, đề ra được những quyết định chính xác và kịp thời. Nghệ thuật chỉ đạo tài tình của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc chọn đúng thời cơ, ra quyết định Tổng khởi nghĩa đúng lúc thể hiện cụ thể trong chỉ thị của Thường vụ Trung ương Đảng tháng 3-1945 “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” và bản Quân lệnh số 1 của Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc phát đi đêm 13-8-1945.
Cũng nhờ chọn đúng thời cơ mà sức mạnh của nhân dân ta trong Cách mạng Tháng Tám được nhân lên gấp bội, đã tiến hành tổng khởi nghĩa thành công trong phạm vi cả nước trong thời gian ngắn.
Kỷ niệm 72 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh mùng 2-9, chúng ta càng nhận thức đầy đủ trách nhiệm của các thế hệ hôm nay trong việc vận dụng và phát triển những bài học kinh nghiệm quý giá của Cách mạng Tháng Tám, của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc 72 năm qua vào sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đai hóa đất nước và hội nhập quốc tế, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Thượng tá, TS Hoàng Giang Nam
Phó Trưởng phòng Công tác Chính trị
Cách Mạng Tháng Mười Nga Vĩ Đại Với Cách Mạng Việt Nam .Công An Tra Vinh
CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI NGA VĨ ĐẠI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 là cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa do giai cấp vô sản Nga tiến hành, đánh dấu sự ra đời của Nhà nước Nga Xô viết – Nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới. Đây là một sự kiện trọng đại trong tiến trình lịch sử của nhân loại, mở ra thời kỳ phát triển mới của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế cũng như phong trào giải phóng dân tộc. Từ chỗ chỉ là ước mơ cao đẹp của loài người, sau Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, chủ nghĩa xã hội đã trở thành hiện thực, có sức mạnh vô cùng to lớn, lôi cuốn các dân tộc bị áp bức vùng lên đấu tranh giành độc lập, tự do. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”[1]. Từ sau Cách mạng Tháng Mười, Liên Xô đã giành được những thành tựu to lớn về nhiều mặt, nhất là đã huy động được lực lượng vật chất và tinh thần đánh thắng liên minh các thế lực đế quốc trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, các thế lực phát xít tàn bạo trong Chiến tranh thế giới thứ hai, hình thành hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Trong hơn bảy mươi năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác đã đạt được sự phát triển mạnh mẽ về tiềm lực kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội trên quy mô lớn với trình độ hiện đại, bảo đảm ngày càng tốt hơn đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Với sự lớn mạnh toàn diện, chủ nghĩa xã hội có ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống chính trị thế giới, đóng vai trò quan trọng đối với sự sụp đổ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, mở ra kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc và thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Chính chủ nghĩa xã hội và cuộc đấu tranh rộng lớn, mạnh mẽ của nhân dân lao động đã là động lực to lớn buộc các thế lực thực dân, đế quốc phải thừa nhận quyền độc lập, tự do của các dân tộc thuộc địa; chính quyền các nước tư bản có những cải cách xã hội để cải thiện đời sống của người lao động… Ở Việt Nam, vào đầu thế kỷ 20, trong bối cảnh các lực lượng yêu nước bế tắc về đường lối đấu tranh giải phóng dân tộc, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã đưa ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, ánh sáng của Cách mạng Tháng Mười đến với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Năm 1927, trong cuốn “Đường cách mệnh” – cuốn sách giáo khoa lý luận chính trị đầu tiên của cách mạng Việt Nam, Người khẳng định: “Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành công thì phải dân chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mác và Lênin”[2]. Sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam đã dẫn tới sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam – đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Ngay từ khi mới ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin; đi lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng và dân tộc Việt Nam, là yêu cầu khách quan, con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Kế thừa và vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm, bài học lịch sử của Cách mạng Tháng Mười, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được những kỳ tích vẻ vang. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là thắng lợi của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do, đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám ở Việt Nam một lần nữa đã chứng tỏ tính chất đúng đắn của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, tính chất đúng đắn của đường lối mà Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười năm 1917 đã vạch ra…”[3]. Thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, đại thắng mùa Xuân năm 1975, đã hoàn thành sứ mệnh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và làm tròn nghĩa vụ quốc tế cao cả. Những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế đã đưa đất nước ta vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội với nhận thức và tư duy mới đúng đắn, phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Với những thắng lợi vĩ đại giành được trong suốt 87 năm qua kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, nước ta từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa; nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, có quan hệ quốc tế rộng mở, có vị thế, uy tín ngày càng cao trong khu vực và trên thế giới. Những mốc son chói lọi mà cách mạng Việt Nam giành được là sự nối tiếp hào hùng lý tưởng, mục tiêu của Cách mạng Tháng Mười, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Việt Nam có câu tục ngữ: “Uống nước nhớ nguồn”. Càng nhớ lại những ngày tủi nhục mất nước, nhớ lại mỗi bước đường đấu tranh cách mạng đầy hy sinh, gian khổ mà cũng đầy thắng lợi vẻ vang thì giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam càng thấm thía công ơn to lớn của Lênin và Cách mạng Tháng Mười”[4]. Chính vì vậy, trong trái tim mỗi người Việt Nam, tình cảm gắn bó và lòng biết ơn đối với Cách mạng Tháng Mười cũng như đối với V.I. Lênin – lãnh tụ vĩ đại của giai cấp vô sản – là vô cùng sâu sắc. Từ cuối những năm 1980 đến đầu những năm 1990 của thế kỷ 20, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, chế độ xã hội chủ nghĩa theo mô hình Xô viết ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ; chủ nghĩa xã hội và phong trào cộng sản và công nhân quốc tế lâm vào thoái trào, tác động sâu sắc đến tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân ta. Đây là tổn thất lớn đối với phong trào cách mạng thế giới, nhưng một số nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam, vẫn kiên định mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, tiến hành cải cách, đổi mới. Đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo là kết quả của quá trình tìm tòi, thử nghiệm, bám sát thực tiễn, vừa làm vừa tổng kết, rút kinh nghiệm để tiếp tục hoàn thiện. Theo đó, Đảng ta luôn kiên định quan điểm đổi mới có nguyên tắc, đổi mới nhưng không đổi màu, đổi mới nhưng phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, đổi mới để hoàn thành tốt hơn hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trước những diễn biến thăng trầm của lịch sử, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã nhấn mạnh: “Chẳng lẽ bao nhiêu thành quả cách mạng giành được bằng xương máu của biết bao thế hệ người Việt Nam lại đem trao vào tay những lực lượng đưa đất nước đi vào con đường tư bản chủ nghĩa, con đường chắc chắn không thể bảo đảm độc lập thật sự cho dân tộc, tự do hạnh phúc thật sự cho tuyệt đại đa số nhân dân… Chính vì vậy, nhân dân ta quyết không chấp nhận con đường nào khác ngoài con đường xã hội chủ nghĩa”[5]. Trong bối cảnh tình hình thế giới cực kỳ phức tạp, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, nhân dân ta với lòng yêu nước nồng nàn và niềm tin sâu sắc vào thắng lợi của chủ nghĩa xã hội đã vượt lên muôn trùng khó khăn, thử thách, từng bước đưa đất nước vững bước đi lên. Tư tưởng nhân văn cao đẹp của Cách mạng Tháng Mười tiếp tục được Đảng ta lãnh đạo hiện thực hóa trong sự nghiệp đổi mới, giành được những thành tựu to lớn. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”. Những thắng lợi vẻ vang qua hơn 30 năm đổi mới là minh chứng sinh động về sự kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; về quá trình đúc rút, tổng kết những bài học lịch sử của Cách mạng Tháng Mười, cũng như những kinh nghiệm từ cả thành công và thất bại của chủ nghĩa xã hội hiện thực để vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đây là tiền đề, nền tảng quan trọng để đất nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới. V.I. Lênin đã nhấn mạnh: “Bất cứ cuộc cách mạng nào cũng đều đánh dấu một bước ngoặt trong đời sống của quảng đại quần chúng nhân dân. Chừng nào mà bước ngoặt như thế chưa chín muồi, thì không một cuộc cách mạng thật sự nào lại có thể nổ ra được. Và, cũng như mỗi bước ngoặt trong cuộc đời của một người đều đem lại cho người đó rất nhiều bài học, làm cho người đó sống qua và nếm trải rất nhiều cái, thì cách mạng cũng vậy, nó cũng đem lại cho toàn thể nhân dân, trong một thời gian ngắn, những bài học bổ ích nhất và quý giá nhất”[6]. Với ý nghĩa sâu sắc đó, dù thế giới có nhiều biến động, đổi thay, Cách mạng Tháng Mười vẫn luôn tỏa sáng, mãi mãi là biểu tượng sáng ngời về khát vọng và sức mạnh của chủ nghĩa xã hội. Những bài học bổ ích, kinh nghiệm quý báu của cuộc cách mạng vĩ đại này đến nay vẫn còn nguyên giá trị đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thời gian tới, đất nước ta có nhiều thời cơ, thuận lợi cơ bản để phát triển, đồng thời cũng phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phải tiếp tục tiến hành toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, trong đó phát triển kinh tế – xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; xây dựng văn hóa, con người làm nền tảng tinh thần; tăng cường quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Thấm nhuần sâu sắc lời dạy của Bác Hồ kính yêu: “Chỉ có sự lãnh đạo của một đảng biết vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước mình thì mới có thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi và cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công”[7], chúng ta cần chú trọng tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, tiếp tục nhận thức rõ hơn về mô hình xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, tăng cường xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ gìn hòa bình, ổn định, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Tính khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, ý nghĩa thời đại và những bài học quý báu của Cách mạng Tháng Mười vĩ đại là tài sản vô giá, có giá trị bền vững, tiếp tục tỏa sức sống mạnh mẽ đối với cách mạng Việt Nam và nhân loại tiến bộ. Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội – ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và các bậc cách mạng tiền bối đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau, nhất định chúng ta sẽ phát huy cao độ tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, năng động và sáng tạo, nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
GS. TS. Trần Đại Quang
Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, t. 12, tr. 300. [2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, t. 2, tr. 280. [3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, t. 8, tr. 572. [4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, t. 12, tr. 305. [5] Nguyễn Văn Linh: Đổi mới để tiến lên, tập IV, Nhà Xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1991, tr. 155. [6] Lênin: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 34, tr. 73. [7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, t. 12, tr. 303./.
Cổng TTĐT Chính phủ – chúng tôi
Bạn đang xem bài viết Tóm Tắt Ý Nghĩa Lịch Sử Của Cách Mạng Tháng 10 Nga trên website Drosetourmanila.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!