Xem Nhiều 3/2023 #️ Giới Thiệu Chung Về Lễ Hội Truyền Thống # Top 3 Trend | Drosetourmanila.com

Xem Nhiều 3/2023 # Giới Thiệu Chung Về Lễ Hội Truyền Thống # Top 3 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Giới Thiệu Chung Về Lễ Hội Truyền Thống mới nhất trên website Drosetourmanila.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Sự hình thành và ý nghĩa của lễ hội truyền thống Lễ hội truyền thống là loại hình sinh hoạt văn hoá, sản phẩm tinh thần của người dân được hình thành và phát triển trong quá trình lịch sử. Người Việt Nam từ hàng ngàn đời nay có truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”. Lễ hội là sự kiện thể hiện truyền thống quý báu đó của cộng đồng, tôn vinh những hình tượng thiêng, được định danh là những vị “Thần” – những người có thật trong lịch sử dân tộc hay huyền thoại. Hình tượng các vị thần linh đã hội tụ những phẩm chất cao đẹp của con người. Đó là những anh hùng chống giặc ngoại xâm; những người khai phá vùng đất mới, tạo dựng nghề nghiệp; những người chống chọi với thiên tai, trừ ác thú; những người chữa bệnh cứu người; những nhân vật truyền thuyết đã chi phối cuộc sống nơi trần gian, giúp con người hướng thiện, giữ gìn cuộc sống hạnh phúc… Lễ hội là sự kiện tưởng nhớ, tỏ lòng tri ân công đức của các vị thần đối với cộng đồng, dân tộc.

Lễ hội là dịp con người được trở về nguồn, nguồn cội tự nhiên hay nguồn cội của dân tộc đều có ý nghĩa thiêng liêng trong tâm trí mỗi người.

Lễ hội thể hiện sức mạnh cộng đồng làng xã, địa phương hay rộng hơn là quốc gia dân tộc. Họ thờ chung vị thần, có chung mục tiêu đoàn kết để vượt qua gian khó, giành cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Lễ hội cũng là nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ những giá trị văn hoá vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp dân cư; là hình thức giáo dục, chuyển giao cho các thế hệ sau biết giữ gìn, kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống quý báu của dân tộc theo cách riêng, kết hợp giữa yếu tố tâm linh và các trò chơi đua tài, giải trí…

Lễ hội là dịp con người được giải toả, dãi bày phiền muộn, lo âu với thần linh, mong được thần giúp đỡ, chở che đặng vượt qua những thử thách đến với ngày mai tươi sáng hơn.

Quy trình của lễ hội

 

 

Thông thường địa phương nào mở hội cũng đều tiến hành theo ba bước sau:

Chuẩn bị: Chuẩn bị lễ hội được chia thành hai giai đoạn. Giai đoạn chuẩn bị cho mùa lễ hội sau và khi ngày hội đã đến gần. Chuẩn bị cho mùa lễ hội sau được tiến hành ngay sau khi mùa hội trước kết thúc, mọi khâu chuẩn bị đã có sự phân công, cắt cử mọi việc để đón mùa lễ hội năm sau. Khi ngày hội sắp diễn ra, công việc kiểm tra lại đồ tế lễ, trang phục, quét dọn, mở cửa di tích, rước nước làm lễ tắm tượng (mộc dục) cùng các đồ tế tự, thay trang phục mũ cho thần…

Vào hội: nhiều hoạt động diễn ra trong các ngày lễ hội, đó là các nghi thức tế lễ, lễ rước, dâng hương, tổ chức các trò vui. Đây là toàn bộ những hoạt động chính có ý nghĩa nhất của một lễ hội. Lễ hội thu hút nhiều đối tượng hay ít khách đến với lễ hội, diễn ra trong nhiều ngày hay một ngày hoàn toàn chi phối bởi các hoạt động trong những ngày này.

Kết thúc hội (xuất tịch, giã đám, giã hội): Ban tổ chức làm lễ tạ, đóng cửa di tích.

Thời gian mở hội

Lễ hội ở Việt Nam được tổ chức nhiều nhất vào ba tháng mùa xuân và mùa thu. Hai khoảng thời gian trên là lúc người dân nhàn rỗi. Mùa xuân tiết trời ấm áp, mùa thu tiết trời mát mẻ, đều thuận lợi cho việc tổ chức lễ hội. Hai yếu tố cơ bản tạo nên sự thoải mái, vui vẻ cho người đi dự hội.

Lễ Hội Truyền Thống Trong Đời Sống Người Việt

Lễ hội truyền thống là hiện tượng lịch sử, hiện tượng văn hóa có mặt ở Việt Nam từ lâu đời và có vai trò không nhỏ trong đời sống xã hội. Những năm gần đây, trong bối cảnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế của nước ta, văn hóa truyền thống nói chung, trong đó có lễ hội truyền thống đã được phục hồi và phát huy, làm phong phú hơn đời sống văn hóa của Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, tốt đẹp trong phục hồi và phát huy lễ hội cổ truyền trong đời sống xã hội đương đại, thì cũng không ít các vấn đề nảy sinh khiến xã hội cần phải nhìn nhận lại và tìm cách khắc phục để những mặt tinh hoa của lễ hội cổ truyền được đẩy mạnh và phát huy, khắc phục dần các hạn chế, tiêu cực. Và bao giờ cũng thế, mọi hành động của con người đều bắt đầu từ nhận thức, chỉ khi chúng ta có nhận thức đúng về lễ hội cổ truyền thì việc phục hồi và phát huy nó trong đời sống xã hội đương đại mới mang lại hiệu quả mong muốn.

Nhận diện lễ hội truyền thống

Lễ hội là một trong những “hoạt động văn hoá cao”, “hoạt động văn hoá nổi trội” trong đời sống con người. Hoạt động lễ hội là hoạt động của cộng đồng hướng tới “xử lý” các mối quan hệ của chính cộng đồng đó. Hoạt động này diễn ra với những hình thức và cấp độ khác nhau, nhằm thoả mãn và phục vụ lợi ích đa dạng trước mắt và lâu dài của các tầng lớp người; thoả mãn những nhu cầu của các cá nhân và tập thể trong môi trường mà họ sinh sống.

Môi trường của lễ hội truyền thống Việt Nam về cơ bản chính là nông thôn, làng xã Việt Nam. Lễ hội là môi trường thuận lợi mà ở đó các yếu tố văn hoá truyền thống được bảo tồn và phát triển. Những yếu tố văn hoá truyền thống đó không ngừng được bổ sung, hoàn thiện, vận hành cùng tiến trình phát triển lịch sử của mỗi địa phương trong lịch sử chung của đất nước. Nó chính là hệ quả của cả quá trình lịch sử của không chỉ một cộng đồng người. Đây chính là tinh hoa được đúc rút, kiểm chứng và hoàn thiện trong dọc dài lịch sử của bất cứ một cộng đồng cư dân nào. Lễ hội có sức lôi cuốn, hấp dẫn và trở thành nhu cầu, khát vọng của người dân cần được đáp ứng và thoả nguyện qua mọi thời đại. Bản chất của lễ hội là sự tổng hợp và khái quát cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân trong xã hội ở từng giai đoạn của lịch sử.

Hiện tại ở nước ta có nhiều loại lễ hội, bên cạnh lễ hội cổ truyền còn có Lễ hội mới, (lễ hội hiện đại, gắn với các sự kiện lịch sử hiện đại, cách mạng), lễ hội sự kiện (gắn với du lịch quảng bá du lịch, Lễ hội nhân kỷ niệm những năm chẵn thành lập thành phố, tỉnh, huyện)…, trong đó lễ hội cổ truyền thống có số lượng nhiều nhất (khoảng trên 7000 lễ hội trong tổng số gần 9000 lễ hội), phạm vi phân bố rộng (cả nông thôn, đô thị, vùng núi các dân tộc), có lịch sử lâu đời nhất. Người ta có thể phân loại lễ hội cổ truyền theo thời gian các mùa trong năm, trong đó quan trọng nhất là mùa xuân, mùa thu (xuân thu nhị kỳ), phân chia theo phạm vi lớn nhỏ: Lễ hội làng, lễ hội vùng, lễ hội quốc gia. Phân loại theo tính chất của lễ hội: Lễ hội nghề nghiệp (nông, ngư, nghề buôn…), lễ hội tôn vinh anh hùng dân tộc, người có công với quê hương, đất nước, lễ hội gắn với các tôn giáo tín ngưỡng cụ thể như lễ hội của Phật, Kitô, Tín ngưỡng dân gian…

Lễ hội cổ truyền là những mốc đánh dấu chu trình đời sống sản xuất và đời sống xã hội của mỗi cộng đồng người, mà một khi cái mốc mang tính lễ nghi đó chưa được thực hiện thì các quá trình sản xuất và quá trình xã hội đó sẽ bị đình trệ, sự sinh tồn và các quan hệ xã hội sẽ bị phá vỡ. Ví dụ, nếu người Việt và người Tày chưa thực hiện nghi lễ “Hạ điền”, “Lồng tồng” thì việc gieo hạt đầu mùa sẽ không thể thực hiện, đứa trẻ sinh ra nếu chưa được thực thi nghi lễ “thổi tai”, đặt tên thì nó chưa thể trở thành con người, một chàng trai đến tuổi trưởng thành mà chưa trải qua nghi lễ thành đinh, cấp sắc thì chưa thể trở thành một thành viên thực sự của cộng đồng, một đôi nam nữ thanh niên chưa là lễ tơ hồng, lễ trình gia tiên thì không thể trở thành vợ chồng, một người chết nếu chưa được thày Tào của người Tày chưa đến thực hiện nghi lễ gọi hồn đưa hồn thì nghi lễ mai táng sẽ không được thực thi. Do vậy, một nghi lễ, lễ hội bao giờ cũng mang tính chuyển tiếp của một chu trình sản xuất vật chất hay xã hội nhất định.

Trong số hơn 7000 lễ hội cổ truyền của nước ta, xét về nguồn cội đều là lễ hội nông nghiệp, quy mô ban đầu là hội làng. Tuy nhiên, trong tiến trình lịch sử, các lễ hội nông nghiệp này dần biến đổi, làm phong phú hơn bằng những nội dung lịch sử (nhất là lịch sử chống ngoại xâm), nội dung xã hội (nhất là các quan hệ cộng đồng), nội dung văn hóa tạo nên diện mạo vô cùng phong phú và đa dạng như ngày nay.

So với các loại lễ hội khác, lễ hội cổ truyền mang 3 đặc trưng cơ bản sau:

. Lễ hội cổ truyền gắn với đời sống tâm linh, tôn giáo tín ngưỡng, nó mang tính thiêng, do vậy nó thuộc thế giới thần linh, thiêng liêng, đối lập với đời sống trần gian, trần tục. Có nhiều sinh hoạt, trình diễn trong lễ hội nhìn bề ngoài là trần tục, như các trò vui chơi giải trí, thi tài, các diễn xướng mang tính phồn thực, nên nó mang tính “tục”, nhưng lại là cái trần tục mang tính phong tục, nên nó vẫn thuộc về cái thiêng, như tôn sùng sinh thực khí mà hội Trò Trám (Phú Thọ) là điển hình.

Tính tâm linh và linh thiêng của lễ hội nó quy định “ngôn ngữ” của lễ hội là ngôn ngữ biểu tượng, tính thăng hoa, vượt lên thế giới hiện thực, trần tục của đời sống thường ngày. Ví dụ, diễn xướng ba trận đánh giặc Ân trong Hội Gióng, diễn xướng cờ lau tập trận trong lễ hội Hoa Lư, diễn xướng rước Chúa gái (Mỵ Nương) trong Hội Tản Viên… Chính các diễn xướng mang tính biểu tượng này tạo nên không khí linh thiêng, hứng khởi và thăng hoa của lễ hội.

Lễ hội cổ truyền là một sinh hoạt văn hóa mang tính hệ thống tính phức hợp, một hiện tượng văn hóa dân gian tổng thể, bao gồm gần như tất cả các phương diện khác nhau của đời sống xã hội của con người: sinh hoạt tín ngưỡng, nghi lễ, phong tục, giao tiếp và gắn kết xã hội, các sinh hoạt diễn xướng dân gian (hát, múa, trò chơi, sân khấu…), các cuộc thi tài, vui chơi, giải trí, ẩm thực, mua bán… Không có một sinh hoạt văn hóa truyền thống nào của nước ta lại có thể sánh được với lễ hội cổ truyền, trong đó chứa đựng đặc tính vừa đa dạng vừa nguyên hợp này.

Chủ thể của lễ hội cổ truyền là cộng đồng, đó là cộng đồng làng, cộng đồng nghề nghiệp, cộng đồng tôn giáo tín ngưỡng, cộng đồng thị dân và lớn hơn cả là cộng đồng quốc gia dân tộc. Nói cách khác không có lễ hội nào lại không thuộc về một dạng cộng đồng, của một cộng đồng nhất định. Cộng đồng chính là chủ thể sáng tạo, hoạt động và hưởng thụ các giá trị văn hóa của lễ hội.

Ba đặc trưng trên nó quy định tính chất, sắc thái văn hóa, cách thức tổ chức, thái độ và hành vi, tình cảm của những người tham gia lễ hội, phân biệt với các loại hình lễ hội khác như lễ hội sự kiện, các loại Festival…

Lễ hội cũng như bất cứ một hiện tượng văn hóa, xã hội nào cũng đều chịu sự tác động bối cảnh kinh tế – xã hội đương thời và nó cũng phải tự thích ứng biến đổi theo. Tuy nhiên, với loại hình lễ hội truyền thống thì ba đặc trưng nêu trên là thuộc về bản chất, là yếu tố bất biến, là hằng số, chỉ có những biểu hiện của ba đặc tính trên là có thể biến đổi, là khả biến để phù hợp với từng bối cảnh xã hội. Khẳng định điều này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với việc phục hồi, bảo tồn và phát huy lễ hội trong xã hội hiện nay. Việc phục dựng, làm mất đi các đặc trưng trên của lễ hội cổ truyền thực chất là làm biến dạng và phá hoại các lễ hội đó.

Giá trị của lễ hội cổ truyền

Khi nước ta cũng như ở nhiều nước khác đã bước vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhưng lễ hội cổ truyền vẫn tồn tại thậm chí còn bùng phát mạnh mẽ. Phải chăng lễ hội cổ truyền vẫn thu hút và lôi cuốn con người xã hội hiện đại? Nói cách khác, lễ hội cổ truyền vẫn đáp ứng nhu cầu của con người không chỉ trong xã hội cổ truyền mà cả xã hội hiện đại. Có được điều đó là do lễ hội cổ truyền hội tụ các giá trị sau:

Giá trị cố kết và biểu dương sức mạnh cộng đồng:

Lễ hội nào cũng là của và thuộc về một cộng đồng người nhất định, đó có thể là cộng đồng làng xã (hội làng), cộng đồng nghề nghiệp (hội nghề), cộng đồng tôn giáo (hội chùa, hội đền, hội nhà thờ), cộng đồng dân tộc (hội Đền Hùng – quôc tế) đến cộng đồng nhỏ hẹp hơn, như gia tộc, dòng họ… chính lễ hội là dịp biểu dương sức mạnh của cộng đồng và là chất kết dính tạo nên sự cố kết cộng đồng.

Mỗi cộng đồng hình thành và tồn tại trên cơ sở của những nền tảng gắn kết, như gắn kết do cùng cư trú trên một lãnh thổ (cộng cư), gắn kết về sở hữu tài nguyên và lợi ích kinh tế (công hữu), gắn kết bởi số mệnh chịu sự chi phối của một lực lượng siêu nhiên nào đó (cộng mệnh), gắn kết bởi nhu cầu sự đồng cảm trong các hoạt động sáng tạo và hưởng thụ văn hoá (cộng cảm)… Lễ hội là môi trường góp phần quan trọng tạo nên niềm cộng mệnh và cộng cảm của sức mạnh cộng đồng.

Ngày nay, trong điều kiện xã hội hiện đại, con người càng ngày càng khẳng định “cái cá nhân”, “cá tính” của mình thì không vì thế cái “cộng đồng” bị phá vỡ, mà nó chỉ biến đổi các sắc thái và phạm vi, con người vẫn phải nương tựa vào cộng đồng, có nhu cầu cố kết cộng đồng. Trong điều kiện như vậy, lễ hội vẫn giữ nguyên giá trị biểu tượng của sức mạnh cộng đồng và tạo nên sự cố kêt cộng đồng ấy.

Giá trị hướng về cội nguồn:

Tất cả mọi lễ hội cổ truyền đều hướng về nguồn. Đó là nguồn cội tự nhiên mà con người vốn từ đó sinh ra và nay vẫn là một bộ phận hữu cơ; nguồn cội cộng đồng như dân tộc, đất nước, xóm làng, tổ tiên, nguồn cội văn hoá… Hơn thế nữa, hướng về nguồn đã trở thành tâm thức của con người Việt Nam – “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây”. Chính vì thế, lễ hội bao giờ cũng gắn với hành hương – du lịch.

Ngày nay, trong thời đại cách mạng khoa học kỹ thuật, tin học hoá, toàn cầu hóa, con người bừng tỉnh về tình trạng tách rời giữa bản thân mình với tự nhiên, môi trường; với lịch sử xa xưa, với truyền thống văn hoá độc đáo đang bị mai một. Chính trong môi trường tự nhiên và xã hội như vậy, hơn bao giờ hết con người càng có nhu cầu hướng về, tìm lại cái nguồn cội tự nhiên của mình, hoà mình vào với môi trường thiên nhiên; trở về, tìm lại và khẳng định cái nguồn gốc cộng đồng và bản sắc văn hoá của mình trong cái chung của văn hoá nhân loại. Chính nền văn hoá truyền thống, trong đó có lễ hội cổ truyền là một biểu tượng, có thể đáp ứng nhu cầu bức xúc ấy. Đó cũng chính là tính nhân bản bền vững và sâu sắc của lễ hội có thể đáp ứng nhu cầu của con người ở mọi thời đại.

Giá trị cân bằng đời sống tâm linh:

Bên cạnh đời sống vật chất, đời sống tinh thần, tư tưởng còn hiện hữu đời sống tâm linh. Đó là đời sống của con người hướng về cái cao cả thiêng liêng – chân thiện mỹ – cái mà con người ngưỡng mộ, ước vọng, tôn thờ, trong đó có niềm tin tôn giáo tín ngưỡng. Như vậy, tôn giáo tín ngưỡng thuộc về đời sống tâm linh, tuy nhiên không phải tất cả đời sống tâm linh là tôn giáo tín ngưỡng. Chính tôn giáo tín ngưỡng, các nghi lễ, lễ hội góp phần làm thoả mãn nhu cầu về đời sống tâm linh của con người, đó là “cuộc đời thứ hai”, đó là trạng thái “thăng hoa” từ đời sống trần tục, hiện hữu.

Xã hội hiện đại với nhịp sống công nghiệp, các hoạt động của con người dường như được “chương trình hoá” theo nhịp hoạt động của máy móc, căng thẳng và đơn điệu, ồn ào, chật chội nhưng vẫn cảm thấy cô đơn. Một đời sống như vậy tuy có đầy đủ về vật chất nhưng vẫn khô cứng về đời sống tinh thần và tâm linh, một đời sống chỉ có dồn nén, “trật tự” mà thiếu sự cởi mở, xô bồ, “tháo khoán”… Tất cả những cái đó hạn chế khả năng hoà đồng của con người, làm thui chột những khả năng sáng tạo văn hoá mang tính đại chúng. Một đời sống như vậy không có “thời điểm mạnh”, “cuộc sống thứ hai”, không có sự “bùng cháy” và “thăng hoa”.

Trở về với văn hoá dân tộc, lễ hội cổ truyền con người hiện đại dường như được tắm mình trong dòng nước mát đầu nguồn của văn hoá dân tộc, tận hưởng những giây phút thiêng liêng, ngưỡng vọng những biểu tượng siêu việt cao cả – chân thiện mỹ, được sống những giờ phút giao cảm hồ hởi đầy tinh thần cộng đồng, con người có thể phô bày tất cả những gì là tinh tuý đẹp đẽ nhất của bản thân qua các cuộc thi tài, qua các hình thức trình diễn nghệ thuật, cách thức ăn mặc lộng lẫy, đẹp đẽ khác hẳn ngày thường… Tất cả đó là trạng thái “thăng hoa” từ đời sống hiện thực, vượt lên trên đời sống hiện thực. Nói cách khác, lễ hội đã thuộc về phạm trù cái thiêng liêng của đời sống tâm linh, đối lập và cân bằng với cái trần tục của đời sống hiện thực.

Giá trị sáng tạo và hưởng thụ văn hóa:

Lễ hội là một hình thức sinh hoạt tín ngưỡng – văn hoá cộng đồng của nhân dân ở nông thôn cũng như ở đô thị. Trong các lễ hội đó, nhân dân tự đứng ra tổ chức, chi phí, sáng tạo và tái hiện các sinh hoạt văn hoá cộng đồng và hưởng thụ các giá trị văn hoá và tâm linh, do vậy, lễ hội bao giờ cũng thấm đượm tinh thần dân chủ và nhân bản sâu sắc. Đặc biệt trong “thời điểm mạnh” của lễ hội, khi mà tất cả mọi người chan hoà trong không khí thiêng liêng, hứng khởi thì các cách biệt xã hội giữa cá nhân ngày thường dường như được xoá nhoà, con người cùng sáng tạo và hưởng thụ những giá trị văn hoá của mình.

Điều này có phần nào đối lập với đời sống thường nhật của những xã hội phát triển, khi mà phân công lao động xã hội đã được chuyên môn hoá, nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ văn hoá của con người đã phần nào tách biệt.

Đấy là chưa kể trong xã hội nhất định, một lớp người có đặc quyền có tham vọng “cướp đoạt” các sáng tạo văn hoá cộng đồng để phục vụ cho lợi ích riêng của mình. Đến như nhu cầu giao tiếp với thần linh của con người cũng tập trung vào một lớp người có “khả năng đặc biệt”. Như vậy, con người, đứng từ góc độ quảng đại quần chúng, không còn thực sự là chủ thể của quá trình sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hoá một cách bình đẳng nữa. Xu hướng đó phần nào xói mòn tinh thần nhân bản của văn hoá, làm tha hoá chính bản thân con người. Do vậy, con người trong xã hội hiện đại, cùng với xu hướng dân chủ hoá về kinh tế, xã hội thì cũng diễn ra quá trình dân chủ hoá về văn hoá. Chính nền văn hoá truyền thống, trong đó có lễ hội cổ truyền là môi trường tiềm ẩn những nhân tố dân chủ trong sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hoá ấy.

Giá trị bảo tồn và trao truyền văn hóa:

Lễ hội không chỉ là tấm gương phản chiếu nền văn hoá dân tộc, mà còn là môi trường bảo tồn, làm giàu và phát huy nền văn hoá dân tộc ấy.

Cuộc sống của con người Việt Nam không phải lúc nào cũng là ngày hội, mà trong chu kỳ một năm, với bao ngày tháng nhọc nhằn, vất vả, lo âu, để rồi “xuân thu nhị kỳ”, “tháng tám giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ”, cuộc sống nơi thôn quê vốn tĩnh lặng ấy vang dậy tiếng trống chiêng, người người tụ hội nơi đình chùa mở hội. Nơi đó, con người hoá thân thành văn hoá, văn hoá làm biến đổi con người, một “bảo tàng sống” về văn hoá dân tộc được hồi sinh, sáng tạo và trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tôi đã nhiều lần tự hỏi, nếu như không có nghi lễ và hội hè thì các làn điệu dân ca như quan họ, hát xoan…; các điệu múa xanh tiền, con đĩ đánh bồng, múa rồng, múa lân…; các hình thức sân khấu chèo, hát bội, rối nước, cải lương…; các trò chơi, trò diễn: Đánh cờ người, chọi gà, chơi đu, đánh vật, bơi trải, đánh phết, trò trám… sẽ ra đời và duy trì như thế nào trong lòng dân tộc suốt hàng nghìn năm qua. Và như vậy thì dân tộc và văn hoá dân tộc sẽ đi đâu, về đâu, sẽ còn mất ra sao?

Đã ai đó từng nói làng xã Việt Nam là cái nôi hình thành, bảo tồn, sản sinh văn hoá truyền thống của dân tộc nhất là trong hoàn cảnh bị xâm lược và đồng hoá. Trong cái làng xã nghèo nàn ấy, ngôi đình mái chùa, cái đền và cùng với nó là lễ hội với “xuân thu nhị kỳ” chính là tâm điểm của cái nôi văn hoá đó. Không có làng xã Việt Nam thì cũng không có văn hoá Việt Nam.

Điều này càng cực kỳ quan trọng trong điều kiện xã hội công nghiệp hoá, hiện đại hoá và toàn cầu hoá hiện nay, khi mà sự nghiệp bảo tồn, làm giàu và phát huy văn hoá truyền thống dân tộc trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, thì làng xã và lễ hội Việt Nam lại gánh một phần trách nhiệm là nơi bảo tồn, làm giàu và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc

Theo cinet.gov.vn

Lễ Hội Truyền Thống: Đâu Là Giá Trị Của Thời Hiện Đại?

(DĐDN) Lễ hội – cây cầu nối quá khứ với hiện tại, bao đời nay đã trở thành một bộ phận không thể thiếu trong đời sống văn hóa cộng đồng. Nhưng cùng với sự phát triển của đời sống kinh tế xã hội, không ít lễ hội đã bị biến tướng, làm mai một ý nghĩa của hoạt động truyền thống tốt đẹp này.

Từ bao đời nay, lễ hội luôn giữ vai trò như sợi dây gắn kết cộng đồng, tạo dựng không gian văn hóa vừa trang trọng, linh thiêng, vừa tưng bừng, náo nức

Theo thống kê của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, những tháng đầu xuân, nước ta có khoảng gần 8.000 lễ hội, trong đó lễ hội dân gian chiếm tới 88%. Nhưng có một thực tế, không nhiều người hiểu được thần tích, không gian văn hóa và giá trị riêng của lễ hội mà họ tham gia.

Biến tướng

Ði lễ mà không hiểu đối tượng hành lễ là ai, ý nghĩa của lễ hội là gì, cần phải ứng xử ra sao, đó là nguyên nhân khiến lễ hội đền Trần chưa năm nào thoát khỏi cảnh ùn ùn kéo đến xin ấn, thậm chí “cướp ấn” vì ngỡ có ấn này sẽ được thăng quan, tiến chức. Ðó cũng là nguyên nhân dẫn đến quan niệm lệch lạc đã dự lễ hội là phải quyên tiền công đức, bằng không sẽ mắc tội với thánh thần. Khi người dự hội sẵn sàng rút tiền để “mua chuộc thần linh”, thì kẻ vụ lợi càng có cơ hội kiếm trác. Ðiều này lý giải tại sao khi tới lễ hội đền Bà Chúa Kho, có thể thấy quanh khu vực đền xuất hiện thêm rất nhiều nơi thờ tự mới, chủ yếu là để “hút” tiền công đức…

Cùng với quan niệm, ứng xử lệch lạc trong lễ hội có nguồn gốc từ việc hiểu sai, hay hiểu chưa đúng về ý nghĩa lễ hội, còn phải kể tới nhiều biểu hiện phi văn hóa khác như chen lấn, xô đẩy, khấn thuê, đốt vàng mã tràn lan… cùng hàng loạt các tệ nạn “ăn theo” như cờ bạc, trộm cắp, “chặt chém”… Ðây là hệ quả tất yếu mà trách nhiệm đầu tiên thuộc về người tổ chức, quản lý. Vì trên thực tế, lễ hội khó có thể phát huy được bản sắc nguyên gốc khi ngay bản thân người tổ chức còn chưa (không) nắm vững ý nghĩa và giá trị đích thực của lễ hội.

Hội Lim gần đây đã lấy điểm nhấn là xác lập kỷ lục Ghi-nét VN với tư cách lễ hội có nhiều người mặc trang phục dân tộc cùng hát dân ca quan họ nhất. Ðành rằng, đây là hoạt động có ý nghĩa thu hút người tham gia và khuếch trương phong trào hát quan họ, song việc lấy đó làm mục tiêu cho lễ hội liệu có phù hợp? Không gian thân tình, gần gũi của khúc hát quan họ trong hội Lim liệu có còn nguyên ý nghĩa khi mà 3.000 người cùng xếp hàng đồng ca một bài quan họ trong vòng vây của rào chắn và lực lượng bảo vệ?

Bên cạnh đó, sự đua chen tổ chức lễ hội một cách vô tội vạ, sự học tập, tiếp thu một cách xô bồ, thiếu chọn lọc của những thôn, làng, xã tại nhiều địa phương nước ta càng làm cho bộ mặt văn hóa lễ hội thêm méo mó. Thực tế cho thấy, trong hàng nghìn lễ hội, hiếm tìm được lễ hội vẫn còn giữ được bản sắc riêng. Và không khó để nhận ra, các lễ hội đang tăng mạnh về lượng, nhưng cũng giảm mạnh về chất.

Đâu là giá trị đích thực?

Vậy đâu là giá trị đích thực của các lễ hội truyền thống? Theo các nhà nghiên cứu văn hóa:

Lễ hội thật sự có ý nghĩa, điều quan trọng hơn cả là nhận thức, ý thức về giá trị đích thực của các lệ hội từ những người tham gia.

Thứ hai, lễ hội truyền thống có chức năng phản ánh, bảo lưu và truyền bá các giá trị văn hóa truyền thống, thể hiện ở sự ngưỡng mộ tổ tiên, ôn lại truyền thống đã qua.

Thứ ba, lễ hội truyền thống còn thể hiện chức năng đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần, tâm linh, giải quyết những khát khao, những ước mơ của cộng đồng các dân tộc ở địa phương… Thông qua đó, lễ hội truyền thống tạo cho con người niềm lạc quan yêu đời, yêu chân lý, trọng cái thiện và làm cho tâm hồn, nhân cách mỗi con người như được sưởi ấm tình nhân đạo, nhân văn để rồi thẩm thấu vào cuộc sống đời thường, đáp ứng nhu cầu đời sống văn hóa tinh thần, tâm linh về giao lưu, làm cho đời sống có ý nghĩa hơn, tốt đẹp hơn.

Thứ tư, chức năng hưởng thụ và giải trí. Ngoài sự “hòa nhập” hết mình trong các hoạt động của lễ hội, được “hóa thân” đóng một vai trong hội hay “nhập thân” vào một trò chơi, tất cả mọi người đều được hưởng những lễ vật mà mình dâng cúng, đều được tham gia vào các hoạt động vui chơi, giải trí trong quá trình tổ chức hoạt động lễ hội. Trong lễ hội truyền thống, người dân không chỉ hưởng thụ mà còn là người sáng tạo văn hóa, là chủ nhân thực sự trong đời sống văn hóa của chính bản thân mình.

Với những ý nghĩa tốt đẹp đó, lễ và hội hướng con người tới “cái thiêng” và gắn bó con người lại với nhau, có sức hấp dẫn lôi cuốn các tầng lớp xã hội, trở thành một nhu cầu, một khát vọng của nhân dân trong nhiều thế kỷ. Chiều sâu của tinh thần lễ hội truyền thống là bảo lưu cội nguồn, là thứ vũ khí tư tưởng rất sắc bén cho mọi thời đại của mỗi dân tộc; do đó, thực hiện tốt các chức năng của lễ hội truyền thống là góp phần giáo dục truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, làm lành mạnh, phong phú đời sống tinh thần của xã hội và cũng để nhằm góp phần “xây dựng nền văn hóa VN tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Bên cạnh đó, lễ hội với những tầm ý nghĩa, giá trị tâm linh, văn hóa sâu sắc cũng đã góp phần to lớn trong việc quảng bá và phát triển du lịch, quảng bá hình ảnh VN với bạn bè thế giới.

Có lẽ để lễ hội thật sự có ý nghĩa, điều quan trọng hơn cả là nhận thức, ý thức về giá trị đích thực của các lệ hội từ những người tham gia!

Phan Nam



Giới Thiệu Về Qatar Airways

Giám đốc Điều hành Tập đoàn Qatar Airways, Ông Akbar Al Baker, là một trong những nhân vật nổi tiếng nhất trong ngành hàng không toàn cầu.

Ông Akbar Al Baker đã đóng vai trò then chốt trong việc định hình sự phát triển của Qatar Airways thành một trong những hãng hàng không phát triển nhanh nhất và được hoan nghênh nhất trên thế giới – được vinh danh là “Hãng Hàng không của Năm” vào năm 2017, 2015, 2012 và 2011 bởi Cơ quan Công nghiệp Hàng không Toàn cầu Skytrax.

Ông Al Baker đã dẫn dắt sự phát triển của Qatar Airways, một hãng chỉ khai thác bốn máy bay trong phạm vi khu vực trước khi ông được bổ nhiệm. Qatar Airways hiện khai thác hơn 200 máy bay tới hơn 150 điểm đến trên sáu lục địa.

Vào tháng 8 năm 2017, Ông Akbar Al Baker, được công bố là Chủ tịch Hội đồng Thống đốc (BoG) của cơ quan công nghiệp hàng không toàn cầu uy tín – Hiệp hội Vận tải Hàng không Quốc tế (IATA), hiệu lực vào tháng 6 năm 2018. Vào tháng 11 năm 2017, ông đã tự hào được vinh danh là ‘Giám đốc Điều hành Hàng không của Năm’ bởi Trung tâm Hàng không của CAPA nhằm ghi nhận tầm ảnh hưởng toàn cầu và cách tiếp cận có tầm nhìn của ông đối với ngành hàng không. Ông Al Baker cũng là thành viên của Ủy ban điều hành của Tổ chức Chuyên chở Hàng không Ả Rập (AACO) và là Giám đốc không điều hành của Heathrow Airport Holdings (HAH) – công ty chịu trách nhiệm điều hành và phát triển sân bay lớn nhất Vương quốc Anh. Vào tháng 6 năm 2015, Tổng thống Cộng hòa Pháp, François Hollande, đã trao cho Ông Akbar Al Baker Bắc Đẩu Bội tinh để ghi nhận sự lãnh đạo của ông trong ngành hàng không.

Là một cá nhân với động lực lớn, ông Al Baker là một doanh nhân thành đạt tại Doha trong hơn 25 năm, có chứng chỉ phi công cá nhân, đồng thời là giám đốc điều hành tại nhiều bộ phận của hãng hàng không quốc gia Qatar – một vài trong số đó bao gồm Qatar Executive, Sân bay Quốc tế Hamad, Công ty Dịch vụ Hàng không Qatar, Công ty Dịch vụ Ăn uống Hàng không Qatar, Công ty Phân phối Qatar, Qatar Duty Free and Công ty Dịch vụ Truyền thông Nội bộ.

Sinh ra tại Doha, ông tốt nghiệp ngành Kinh tế và Thương mại và làm việc ở nhiều cấp độ khác nhau trong Tổng cục Hàng không Dân dụng trước khi trở thành Giám đốc điều hành của Tập đoàn Qatar Airways vào năm 1997.

Bạn đang xem bài viết Giới Thiệu Chung Về Lễ Hội Truyền Thống trên website Drosetourmanila.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!